Thơ Người Tù Thế Kỷ
Nói
đến cõi thơ như mây trời viễn xứ, giăng giăng, nhè nhẹ, mảnh
mai và bềnh bồng, thong dong thư thả, tự tại hồn
nhiên như cõi hư không vô cùng. Như tiếng rì
rào trùng dương bát ngát, từng đợt sóng nhấp nhô, lấp lánh vô
biên đang tấp vào bờ nằm xoải dài thiên thu vô tận. Đại
dương của cõi thơ là lâu đài thành quách, lung linh, huyền ảo của
những con sóng nghìn khơi. Là bãi cát vàng như tấm lụa dệt bằng ánh sáng của mặt
trăng, tia nắng của mặt trời, và lốm đốm vô ngần các tinh thể.
Đá với nước, bóng chiều và cuộc chơi là hành trang để đi vào cõi mộng, hay chất liệu để gây dựng cơ đồ cho cuộc lữ. Mộng hay thực chỉ là cách nói của nhà thơ giầu ngôn ngữ, để pha lẫn, biến thành hình hài đồng tử ước mộng trường sinh:
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi”
Đá
mòn vì nhiều dấu vết thời gian đi qua, nhiều sự ngóng chờ mòn mỏi. Thời
gian đó đã làm đá mòn rêu nhạt dưới ánh tà dương, chiều buồn da diết. Một
sự thi gan cùng tuế nguyệt, chịu đựng bao ngày tháng nắng mưa, đá của
đất trời gầy dựng vẫn trơ mình kiên cố bất động. Một hình bóng lẻ
loi, nhưng chất ngất kiêu hùng, xông pha, vững chãi mặc cho bóng tà
dương sắp lặn về Tây. Bỏ mặc cho ai độc hành cô lữ để nằm nghe âm
thanh ào ạt của nước đổ về từ rừng sâu núi thẳm.
Trong
cuộc tử sinh, Người Tù đi vào cát bụi, làm cuộc lữ phương trời
viễn mộng, đọa đày như cánh hải âu nghìn trùng bạt gió, như dấu
chân Người trên cát nóng mù khơi, xa xăm mòn mỏi:
“Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu....
Khuya còn lạnh sương mù và gió lốc
Thở hơi dài cát bụi cuốn chiêm bao.”
Nhưng
dù có chôn vùi một ước nguyện vẫn không nhạt nhòa hương xưa
cũ. Hương xưa của màu tóc hung hung, bay vào chiều thu, sương mơ, lá vàng
rơi rụng. Hương của bóng xế nhạt nhòa, còn lất phất bờ vai, của một thời
son trẻ, nhiều mơ ước. Mộng kiêu hùng. Mộng trùng khơi xa tít:
Chiều chơ vơ, chiều dạt mấy hồn tôi
Trời viễn mộng, đọa đày đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi”
Rồi đến một hôm nào đó, mắt Người Tù thâm huyền và trầm sâu vô tận, vì Người Tù bâng khuâng, thao thức, hoài niệm nhớ mong những vì sao lạc lối bên kia đỉnh núi, bên kia đồi sao mọc. Bên kia khung trời cũ, khung trời hội ngộ đã một lần hẹn hò trong chuyến tàu đêm, hay bên ánh lửa bập bùng thâu đêm nhiều tâm sự. Chỉ một đêm thôi không ngủ, mắt Người Tù sâu hoắm, tóc Người Tù bạc phơ, mặt Người Tù hõm lại, chân thân hiến dâng cho muôn trùng, cho ước hẹn lên đường phiêu lưu:
Hai bàn tay khói phủ tóc tơ xa
Miền đất đỏ, trăng đã gầy vĩnh viễn
Từ vu vơ bên giấc ngủ mơ hồ.”
Cũng
đôi mắt ấy, lại cưu mang những giấc mộng tàn, những giấc
mộng qua đi. Người Tù mãi chếnh choáng trong trối trăn của tâm
thức, trong sự hao gầy của tự thân, mà không thể bay bổng tuyệt vời như
cánh chim hồng trên chín tầng xanh. Gối đã mỏi, chân đã mòn, tóc đã bạc
khi tuổi đời chưa đến tuổi, nhưng cứ mãi loanh quanh trong bốn bức tường,
mà suối nguồn xa xăm kia vẫn biền biệt. Suối nguồn đang réo
gọi, cát bụi đang nằm chờ, rừng sâu đang mong đợi, biển nước mây trời vẫn hiện
hữu thênh thang mà bóng dáng Người Tù vẫn biệt
tăm. Người Tù đối diện với chính mình, với bóng đèn khuya trong
bóng đêm nhạt nhòa ủ rũ. Tâm sự đầy lại vơi:
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vác tường ủ rũ
Suối nguồn ơi ngược nước xuôi ngành”
Rồi
một buổi sáng hôm nào, Người Tù đi bách bộ trên đồi Trại Thủy, trong
dáng dấp khẳng khiu, gió thổi muốn bay, thì ra suốt một tuần lễ Người
Tù tuyệt thực chỉ uống nước chanh. Người Tù tuyệt thực để phản
đối mình, phản đối sự hiểu biết nghịch thường mà người
thường không hiểu biết. Tuyệt thực để đóng cửa ở một
mình trong phòng, không muốn gặp ai, không muốn tiếp xúc với ai,
không muốn nói chuyện với ai, và cũng chẳng muốn thấy ai cho bận lòng, cho tốn thời
gian, cho mất thời giờ, phung phí mất những điều cần nói, những
việc cần làm để lưu lại cho đời một hình ảnh đơn sơ, như đôi tay gầy,
vầng trán cao. Như đôi mắt sâu, như mái tóc bạc màu hủy hoại
theo sự đọa đày nhục thể. Người Tù ở tù để làm thơ trong tù, để
viết bản thảo, để đánh dương cầm, tấu lên khúc nhạc tâm tư, mà thân phận lạc
loài như cánh én chiều xuân, như đôi cánh bướm rừng mơ, chập chùng hoa
tàn nhụy rã. Đời người trôi qua như từng tiếng vu vơ,
như lá dạt xa bờ, như lòng sông nhuộm nắng, như chiếc lá xa mùa, như ngày cũ xa
xưa. Hình bóng đó vẫn đứng đếm thời gian, giữa những chiều nắng nhạt,
mỗi sáng tinh sương, nhưng tất cả chỉ là phù hư ảo ảnh, là giấc
mộng con, mộng lớn, mộng kiếp tử sinh:
Người mãi đi như nước chảy xa nguồn
Bờ bến lạ chút tự tình với bóng
Mây lạc loài ôi bến cũ ngàn năm”
Nỗi đời và tình người bẽ bàng như nhau, cùng chung số phận không khác. Người đau, cảnh sầu có lẽ muốn chia xẻ như bãi dâu ngàn suối hoang liêu tiêu sơ dưới mắt ai cái nhìn đại cuộc, mà làm cho kẻ lãng du cô thân chích ảnh gối mỏi, gót xiêu bên triền núi khi trên vai còn nặng nợ ân tình, còn vấn vương mây chiều lãng đãng, còn ráng hồng bám víu, chiều hôm. Một kiếp lữ khách, dừng chân nơi quán trọ, gởi chiếc thân như bóng tàu qua đêm, lầm lũi trong sương mù, gió cuốn, cát trắng, nắng vàng trên cánh đồng hoang của kiếp người nhiều mộng mị:
Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng
Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng
Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều
Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu
Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu.”
Người
Tù đã vào cuộc lữ, như con người vào cõi phù hư quanh quẩn đâu
đây như là cát bụi, như sự chìm nổi, đá mòn chiêm bao, quán trọ, thông già
để nghe mối hận dâng cao. Hận mùa thu mây trắng, hận rừng thu lá
vàng, hận trời thu hiu hắt, hận gió thu mang mang, mà xuôi đôi chân
trần về miền cát bụi, lăn lóc trơ trọi. Người Tù hóa
thân vào cát bụi, như Bồ Tát hóa thân làm hạnh độ
sinh, chẳng biết từ nan bất cứ nơi nào. Địa ngục, trần gian, thiên giới, long
cung đều có dáng từ Bồ Tát cứu khổ độ mê, đưa chúng
sinh về miền tịnh lạc. Đó là hạnh nguyện, tư lương độ
đời kham nhẫn mà mạnh dạn Bồ Tát bước chân vào dòng cuồng
lưu sinh tử. Hành trang và sự nghiệp của Người Tù đi
vào thế giới lãng du cát bụi là đá mòn, tà dương, đào tiên, mục tử,
là cánh chim trời, nỗi hao mòn, tiếng kêu và nỗi lạnh sương khuya; là gió
lốc, chiêm bao, con tàu, tóc trắng; mắt sâu và dòng máu phiêu lưu; là
màu nắng, là hương tóc cũ, là chiều bơ vơ, là mộng kiêu hùng, muối mặn, trùng
khơi; là đáy biển, là trăng gầy, là điêu tàn, khói phủ; là tuổi vàng, đồi
hoang, trăng tàn, núi lạnh, là đỉnh đá, hạt muối, mùa hạ, bụi đường, suối
rừng, nước cuốn, tóc huyền sương mai... Đó là chất liệu để Người Tù làm cuộc rong
chơi, in dấu chân mòn trên mặt đất, độc hành, cô lữ, héo hon:
Đôi chân trần xuôi ảo ảnh về đâu
Tay níu lại những lần khần chìm nổi
Hận thu cao mây trắng bỗng thay màu.
....
Còi rộn rã bởi hoang đường đã đổi
Bởi phiêu lưu ngày tháng vẫn con tàu
Vẫn lăn lóc với đá mòn dứt nối
Đá mòn ơi cười một thuở chiêm bao
Quỳ xuống nữa ngủ vùi trong cát bụi
Nửa chừng say quán trọ khóc lao xao.”
Cõi thơ, Người Tù không còn ranh giới. Người Tù đã nhập thể vào cõi thơ. Thơ là người, người là thơ không còn khác biệt, đồng điệu như cung đàn xưa. Cung đàn lướt đều dưới mười ngón tay xương xẩu, xanh mét, như những cọng lau gầy phiêu diêu trước gió.
Sáng nay, Người Tù ngồi bên bếp lửa hồng đun nước sớm. Tiếng lửa reo tí tách, tiếng nước reo vui trong ấm, mà tự dưng mơ màng rừng sâu phố thị. Mắt Người Tù đăm chiêu nhìn bếp lửa, môi mấp máy, tay lần khần khơi từng cục than lăn qua trở lại như lăn đời mình nhục nhằn trong tù ngục trên đỉnh Trường Sơn để mà:
Vai mang tủi nhục hờn lay mộng tàn
Rừng sâu mấy nhịp Trường Sơn
Biển Đông mấy độ triều dâng ráng hồng”
Tâm
sự của riêng mình, hay nỗi bơ vơ lạc loài giữa đất trời mênh
mông hoang dã, Người Tù cảm thấy hụt hẫng, vì quanh mình chẳng
thấy ai chung lối. Trao thân cho cát bụi thì người yêu cát bụi chẳng chung
tình, gởi một nguyện ước cho muôn trùng thì trùng khơi dậy sóng, chỉ còn là tự
tình, để yêu đốm lửa đêm sâu bập bùng, và gởi thân tạo dựng quê hương cùng với
nỗi hờn thiên thu khổ lụy, cho một khoảng trống vắng mênh
mông. Sau lưng, bụi đường khỏa lấp, chôn chân mục nát rêu phong,
từ đó thì thầm nghe một phương trời nào là gác trọ:
Con đi xào xạc tiếng gà
Đêm đêm trông bóng Thiên Hà buồn tênh
Đời không cát bụi chung tình
Người yêu cát bụi quê mình là đâu?”
Dưới
bóng đổ dài, ngôi Kim thân Phật Tổ ngự trên đồi Trại Thủy nhìn
ra biển Nha Trang, lồng lộng gió chiều, được mệnh danh là miền thùy
dương cát trắng, Người Tù đưa tay bẻ cành hoa Tứ Quý, một loài hoa dại mọc
nơi sườn đồi, chung quanh tượng Phật, xoay xoay theo chiều gió. Dường
như Người Tù muốn gửi hương theo gió bay về một phương trời nào đó. Hương
của hoa rừng, hay hương của một tấm lòng cho mây ngàn, cỏ nội, làn hương thơm
lây đến tất cả các loài thảo mộc, nơi miền xa xôi. Nơi có mây trắng
và núi cao, có sương sớm và đò ngang nước lạnh đang ngóng chờ khách bộ hành
sang sông. Người Tù có lẽ là lão chèo đò, đưa người qua bến hay là tiễn
biệt lữ hành đi vào cuộc lữ của “phương trời viễn mộng”.
Người
Tù đứng nhìn ra biển khơi, xa xa là những rặng núi mờ vì sóng nước. Những dãy
núi này được gọi là Hòn Tre hay Hòn Yến chắn ngang cửa biển làm dịu lại những
cơn sóng nước muôn trùng, nhờ vậy mà bãi biển Nha Trang êm ả, nên
thơ. Dưới chân núi là những hàng dừa xanh bát ngát, chạy vòng bao quanh từ
những chân núi xa Đồng Bò, Đồng Đế, Diên Khánh, Phước Hải ... đến
mép bờ biển Cầu Đá, Cửa Bé, Lương Sơn... Rừng dừa được nuôi lớn từ nước mặn
và cát trắng, xanh tươi mượt mà nhờ làn gió biển thổi vào từ đại dương bao
la cho thêm sum xuê, đầy trái ngọt. Khung cảnh thơ mộng thành phố Nha
Trang đã giữ được bước chân Người phiêu lãng qua những năm tháng phiêu bồng, thể
hiện tấm lòng gầy dựng tương lai của một thế hệ, nhưng rồi thời
cuộc đẩy đưa, trời chẳng chiều lòng người nên tất cả chỉ là những rong
chơi, bâng quơ như giã biệt, hay tiễn đưa ai trên con đò ngang qua
dòng sông lạnh, để người ra đi còn mình ở lại với bóng đèn u tịch:
Trời ơi mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình nước lạnh sao?
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi
....
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạt lều tranh
Tay so phấn nhụy trên màu úa
Trên phím dương cầm hay máu xanh.”
Người
Tù đã dứt áo, bỏ lại sau lưng những dấu chân mờ còn phong kín xanh
rêu. Lá rừng nơi đây được đổi thay, lá rừng Vạn Giả. Ngày cuốc đất trồng
khoai, tỉa ngô vun sắn; tối ngắm sao trời bên mái tranh xiêu, Người Tù vùi chôn
ngày tháng với cuốc, mai, nương rau, liếp cải.
Một tay cầm cuốc, xới lên luống đất mới của núi rừng Vạn Giả để gầy dựng sự sống; một tay cầm bút viết nên những vần thơ ven rừng, suối mây, cỏ dại:
Đời không thuê sức yếu
Ta mộng phương trời xa
Trời buồn mây nặng trĩu
Ven bờ thân cỏ dại
Sức sống thẹn vai gầy
Tóc trắng mờ biên ải
Nỗi hờn mây không bay.”
Sự
sống được khơi nguồn, những ngày tháng vật vã trên luống đất mới, qua
lát cuốc sâu, lầm lũi như người nông phu yêu ruộng vườn, rẫy nương, lúa mạ. Mạch
sống của liếp cà, giàn bí, mướp đắng, bầu xanh dưỡng nuôi lý tưởng, Người
Tù cặm cụi, một nắng hai sương. Sự sống ấy được chăm sóc, nâng niu bằng
đôi tay trang trọng, bằng đôi chân nhẹ nhàng thảnh thơi để gieo mầm hy
vọng:
Gieo gió Xuân chờ đợi mưa Hè
Nghe cóc nhái gọi dồn khe suối
Biết khi nào phố chợ chắn bờ đê”
Những liếp cà xanh, luống tía tô phơi mình trong nắng hạ, Người Tù nâng niu từng quả cà tím sẫm, giàn ổ qua, dây bí rợ bò lan tràn trên mặt đất, đùn thành những ụ cao như gò mối. Chính sức sống mạnh mẽ nơi đây là do sự cố gắng, hít thở khí trời, sương khuya gió sớm để un đúc, trưởng thành. Người Tù đứng nhìn công trình xây dựng của mình đượm màu xanh, màu ước mơ hy vọng:
Gặm nhắm tàn dãy bí
Ta vì đời ganh đua
Khổ nhọc mòn tâm trí
Ta biết mi là dế
Cắn đứt chân cà non
Ta vì đời đổ lệ
Nên phong kín nỗi hờn
Ta biết mi là giun
Chui dưới lòng đất thẳm
Ta vì đời thiệt hơn
Đêm nằm mơ tóc trắng
Người
Tù với vóc dáng mảnh khảnh, yếu gầy, mẫu người không phải sinh ra để cày
sâu cuốc bẫm, khai hoang nương rẫy, ruộng đồng để tìm mưu sinh trong chốn khốn
cùng; Người Tù bất đắc chí, quăng bút nghiên ở ẩn chốn hoang
sơ nên “độc hành kỳ đạo, độc thân kỳ sinh” không nương nhờ cậy
ai. Bằng sức người nhỏ nhắn, giữa đêm tối mông lung, giữa ngày hè nắng
gắt, không nhụt chí phấn đấu trên vùng đất mới vỡ, Người Tù vẫn không nguôi
ngoai ước nguyện cho đời, cho một phố xưa nhiều hương sắc, dẫn khởi
cho Người một niềm an nhiên tịnh lạc. Người Tù bỏ lại sau lưng
thành phố cũ, bụi mờ khói nhạt, mây bay, lầm lũi nơi xó rừng, bên nương dâu rẫy
bắp, nhưng ước vọng một ngày về góp bàn tay xây dựng cơ đồ,
quê hương đổ nát. Sự đổ nát cứ âm ỉ, gặm mòn tiêu hao cho đến ngày
gục ngã. Đó là viễn ảnh trong mắt Người Tù đã nhận diện sự
hư thực của đời qua guồng máy bạo tàn. Ngày về trên đôi chân trần, còn
vương bụi đỏ, còn phảng phất hương đồng cỏ nội của miền Soi Đê:
Màu Trường Sơn pha nắng rực trưa hè
Anh vẫn nhớ những con đường bụi đỏ
Và tình yêu trong ánh mắt rã rời.”
Tiếng hát của thi nhân, hay tiếng đàn của người nghệ sỹ là chất liệu sống chảy xuôi theo mười ngón tay lả lướt trên thùng đàn tồn đọng trên khóe môi nồng ấm tự thuở đầu đời, Người Tù đã sống từ thuở ấy. Cái thuở của buổi ban sơ, khi tâm tư con người còn trong trắng, thuần tịnh, như sáng hôm nay, tia nắng chiếu xuyên qua mành, lọt vào khe cửa sổ, soi tỏ từng hạt bụi li ti trong không gian, Người Tù ngồi đăm chiêu bên dương cầm chẳng buồn gõ, vầng trán ấy như vọng về nơi đâu, xa xăm để nhớ lại những lời tiễn biệt, những nụ cười tiếng hát năm xưa. Ấy là một thời đôi tay Người không bị còng, đôi chân Người tự do rảo bước các miền thi ca, âm nhạc, triết lý Đông Tây. Là thuở của Người tự do ca hát, hát bài tình ca tự do:
Hỏi phương nào cho nguyện ước Trường Sơn
Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn
Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt
Mờ phố thị những chiều hôm suối tóc
Bóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa.”
Đáp chuyến tàu đêm từ rẫy Soi Đê – Vạn Giả vào lại Viện Nha Trang những khi vắng người, vì ai cũng phải đi làm, Người Tù một bóng một hình ít được biết tới. Khi đi sớm lúc về khuya, Người Tù thoạt hiện thoạt biến như những cơn gió biển khơi thổi ngang qua gác chuông khuya Chùa Hải Đức, đìu hiu, cô quạnh. Khuya nay ai sẽ là người gióng quả Đại Hồng Chung, để tiếng chuông ngân vang trong lời kệ thỉnh: “Nguyện tiếng chuông này siêu pháp giới, các cõi tối tăm thảy đều nghe. Nghe rồi thanh tịnh chứng viên thông, tất cả chúng sanh thành chánh giác.” Quả Đại Hồng Chung có từ lâu đời, trước khi Người Tù dừng chân đứng lại trên đồi Trại Thủy. Tiếng chuông ngân lên buổi sáng mai lành, lúc mọi người còn đang say giấc ngủ. Nhưng, tiếng chuông đã đánh thức Người qua giấc mộng êm đềm để Người choàng tỉnh cơn mê. Mái gác chuông đã nhuộm màu rêu phong, cột gác chuông xám xì theo năm tháng phế hưng, lớp da bọc dùi dộng chuông đã rách mòn cũ kỹ. Nhưng quả Đại Hồng Chung vẫn lầm lì cổ kính, dửng dưng giữa cuộc phong trần, mặc cho năm tháng phôi pha, ai đến ai đi quả chuông vẫn đứng đấy.
Nép mình dưới tàng Bồ Đề xanh thắm, chen giữa cánh phượng đỏ trưa hè, quả Đại Hồng Chung như được bao người mến mộ, thỉnh tiếng chuông cho vơi bớt bụi trần. Đó là tâm tình của khách viếng cảnh, thăm Chùa vào những thập niên trước với những khách vãng lai nhộn nhịp. Giờ thì không, chỉ là dấu mòn rêu nhạt, dẫu biết rằng gác chuông trên đồi Trại Thủy được bao quanh bởi xóm làng phố thị đông đúc. Nhưng dù có sao đi nữa, cảnh vật có hoang liêu tiêu sơ, núi đồi có khô cằn sỏi đá, quả Đại Hồng Chung Chùa Hải Đức vẫn thâm nghiêm, kính cẩn, soi mình dưới bóng trăng thanh, u huyền, tao nhã; vẫn sừng sững vững chắc để bảo tồn một chứng tích công phu của Tổ Đức một thời tâm huyết; lưu giữ lời di chúc vô ngôn mà thừa truyền cho hàng hậu duệ.
Người Tù cũng mang tâm nguyện ấy, muốn truyền đạt sở học của mình cho đàn con cháu, nhưng mấy ai đủ thiện duyên, đủ hiểu biết để tiếp thọ. Người Tù rơi lệ cho chính mình, cho lý tưởng giải thoát giác ngộ, cho một cõi vô cùng trên đỉnh tuyết sơn mà mấy ngàn năm qua vẫn lưu giữ hình hài của Sơ Tổ Ca Diếp nơi đó. Khóc cho quê hương mấy ngàn năm văn hiến, giờ như viên đá bụi đường, vết tích tang thương. Một tấm lòng u uẩn lạnh tanh:
Lời ai ru trào máu lệ bi thương
Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương
Ai tóc trắng đìu hiu trên đỉnh tuyết
Bước chập chờn heo hút giữa màn sương
Viên đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường?”
Giá
có ai đi qua dưới chân tháp sắt của Viện sẽ thấy còn lại những chứng
tích tàn phá của thời gian. Nền tháp còn kia, nhưng tháp cao mười
hai tầng đã bị ai phá sập. Bên cạnh tháp sắt là Quán
Âm Các, bây giờ cũng hóa thân vào cát bụi, như hạnh nguyện độ
sinh của Bồ Tát hóa thân vào đời trầm luân. Nơi
đây, Người Tù đã bao lần ngồi kể chuyện Thiện Tài Đồng Tử, trong Kinh
Hoa Nghiêm đi tham học qua 53 vị Tổ Sư. Một trang Thiện
gia Nam tử vì sở cầu, chí nguyện tham vấn mà một
thân, một mình đi từ hải đảo này đến đỉnh núi kia. Khi
nghe một vị Tổ Sư nào danh tiếng dù ở chân trời góc biển xa
xăm, Thiện Tài Đồng Tử đều đi đến đảnh lễ tham học. Đó
là chí nguyện của kẻ xuất trần, giàu lòng nhân, xây dựng đời
bằng tấm lòng khoan dung, độ lượng, biết thương đời, biết thương người, giải
thoát chốn tối tăm. Người Tù cũng bước theo dấu chân ấy,
bước đi khắp nẻo quê hương, vì Người Tù là đứa con của quê mẹ, nên Người Tù chẳng
rời xa quê mẹ. Sinh ra từ quê mẹ, thì có chết cũng chết trên quê mẹ. Dù
quê mẹ nghèo đói, đất mẹ gầy hao thiếu áo cơm, đói rách, nhưng chí
nguyện Người Tù vẫn hực lửa để soi sáng quê hương. Người Tù
đi tham học các miền, các vị Tổ Đức Tòng Lâm, trang bị cho mình
một kiến văn quảng bác. Nhưng khi con phượng hoàng đủ lông đủ
cánh thì cất cánh bay cao. Khi rồng thiêng ẩn mình dưới đầm lầy
đủ nanh vuốt thì vẫy vùng nơi bể sâu sóng cả. Do vậy,
khi “Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn”, Người Tù mang nỗi đau lớn,
nỗi đau của một người sống trong lòng quê hương bị dập vùi theo cát bụi
quê hương. Người Tù mất quê hương giữa lòng quê hương, nên Người Tù nguyện
ở tù cho quê hương được có trọn một mùa Xuân:
Đôi vai gầy dâng trọn cả mùa Xuân.”
Người
Tù khóc cho quê hương sao nhiều máu và nước mắt. Suốt một dòng lịch sử mấy
ngàn năm quê hương bị xâm lăng, đô hộ, quê hương bị cướp đoạt, tương tàn với biết
bao nỗi thống khổ:
Dài con sông trào máu lệ quê cha.”
Đến hôm nay, Người Tù là chứng nhân của một chặng đường lịch sử. Nhìn dòng sử mệnh quê hương trôi nổi, điêu linh với bao nỗi xót xa, Người Tù giở lại từng trang lịch sử để thấy từ thủa bình minh lập quốc, dòng máu của các chiến sĩ, các anh hùng dân tộc, đã thấm sâu trong từng tấc đất quê hương, trải dài trên giang sơn gấm vóc, mở rộng bờ cõi biên cương, cho cánh đồng lúa ngày thêm mượt mà xanh thẳm. Máu xương của các bậc tiền nhân khổ công dựng nước, xây nước và giữ nước cho đến bây giờ. Sự kiến tạo quê hương, mở mang bờ cõi, giữ gìn quê Cha đất Tổ được thanh bình. Sự hy sinh đó, máu chảy thành sông, xương chất thành núi qua bao thế hệ, bao lớp người ngã xuống, nuôi sống cỏ cây, nuôi sống dòng lịch sử dân tộc hào hùng.
Lần
giở lại lịch sử quê hương, dân tộc, biết bao công đức của
các bậc Tổ Đức Tiền Nhân, các anh hùng, chiến sĩ vô
danh vùi thây ngoài chiến địa cho sự trường tồn của dân tộc. Không ngồi
yên nhìn gót giày quân giặc tàn phá quê cha, nhìn sự ngược đãi bạo tàn của
quân xâm lược. Một Trưng Nữ Vương đã phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân
thù ra khỏi biên cương, tạo dựng một quê hương độc lập tự chủ, với hiến
pháp kỷ cương luật định. Ngồi trên bành voi vì nợ nước thù
nhà, để xiển dương dòng máu nữ lưu anh kiệt. Một Triệu Thị Trinh, đã “cưỡi
cơn sóng dữ, đạp luồng kình phong, quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi,
mà không là nữ nhi thường tình.” Một tướng quân Trần Bình Trọng dõng
dạc, khẩu khí, kiêu hùng: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc.” Một
Trần Khánh Dư ngồi đan sọt mà lo việc nước. Một Đại tướng Trần
Hưng Đạo: “Ngày nào đầu tôi còn trên cổ, thì ngày đó xin Vua đừng lo.” Đem chí
nguyện của một con dân, hiến dâng cho Tổ quốc, tiếp nối mạch sống
giống nòi, lấy da ngựa bọc thây, lấy áo bào làm mồ chôn thân xác đáp đền
ơn nước.
Một Lý Thường Kiệt hào hùng, bất khuất, minh định:
Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhử đẳng hành khan thủ bại hư.”
Một Lê Lai liều mình cứu Chúa, một Lê Lợi nếm mật nằm gai, mười năm kháng chiến chống quân Minh trong rừng núi Chí Linh, không sờn lòng nhụt chí. Một Nguyễn Trãi: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần.” Tất cả đã đều đóng góp xương máu vào dòng sử Việt. Một Đại Đế Quang Trung thống nhất sơn hà, để hơn hai mươi vạn quân Thanh vội vã, chen chúc rút lui bỏ thây nơi cầu phao, cũng vì dòng máu quật cường của dân tộc Việt Nam. Người Tù, cũng nổi trôi theo dòng sử mệnh đó.
Người Tù chứng kiến thảm trạng của quê hương hôm nay mà nhớ lại bước đường lịch sử xa xưa của các bậc khai quốc công thần.
Từ nguyên sơ sông máu thắm đồng xanh
Tôi là cỏ trôi theo dòng thiên cổ
Nghe lời ru nhớ mãi buổi bình minh.”
Ý thức phận mình trong thân phận quê hương hiện nay, Người Tù đi làm hạt cát. Một hạt cát trong bãi cát nóng muôn trùng. Hạt cát nóng đó lăn vào mắt kẻ quan quyền, bạo chúa, kẻ hưởng thụ trên máu xương của dân tộc, kẻ thống lãnh cai trị một chế độ phi nhân.
Cài sao hôm lấp lánh tóc mai
Bà cúi xuống cho đẹp lòng thần tử
Kìa, khách lạ, người là ai?
Tôi sứ giả hư vô
Xin gửi trong đôi mắt Bà
Một hạt cát.”
Trên
dòng sử mệnh quê hương, Người Tù đã bềnh bồng trong dòng sông từ khơi
nguồn tiến hóa tự thủa man khai. Người Tù bước đi trên tinh
thần quê hương dân tộc, làm nghĩa vụ của một con dân. Là cọng cỏ
trong đám cỏ. Là chiếc lá trong rừng lá. Là giọt nước trong dòng
sông. Là hạt cát trong bãi cát. Là hạt mưa trong cơn mưa
làm mát dịu khí trời oi bức, làm tắt lịm cơn nắng sốt trưa hè. Nhưng Người
Tù làm mát dịu lòng dân thì lại xốn xang, cay rát mắt người thống trị. Vì
sự đau nhức đó, Người Tù phải lãnh bản án tử hình, hay tù khổ
sai chung thân qua hai thế kỷ.
Tất
cả là bài học của thời gian, xoi mòn và sụp đổ. Người Tù nói với quê
hương “mặt trời kia sẽ tắt.” Đó là bài học lịch sử muôn đời, bất
biến. Rồi một ngày nào đó những gì của quê hương, hãy trả lại cho quê
hương, những gì của giống nòi dân tộc hãy trả lại cho dân tộc giống
nòi. Chẳng ai có thẩm quyền cướp đoạt, tẩu tán tài sản của
cha ông ngàn đời xây dựng.
“Nắng lụa đỏ phủ tường rêu xám bạc
Lá cây xanh nghiêng xuống mắt mơ màng.
Người có biết mặt trời kia sẽ tắt?
Tôi yêu người từ vết rạn thời gian.”
Đó
là lẽ tất nhiên được khẳng định qua bài học dấu mòn bên lịch sử. Một
chân, Người Tù đi trong lòng quê hương; Một chân, đi trong lòng Đạo pháp,
theo vết tích hoằng dương của Chư Lịch Đại Tổ Sư. Một Thiền
học, Khương Tăng Hội chống tích trượng dựng Phật nghiệp
cùng Mâu Tử, Chi Cương Lương, Lý Miễu, Đạo Cao, Pháp
Minh... Khương Tăng Hội là bậc kỳ vĩ, đồng thời với những
bước chân của các bậc Thạch Trụ Thiền Gia trong sứ mệnh dựng xây
ngôi nhà lịch sử Phật giáo đầu tiên. Công đức và tài
năng của Chư Vị Lịch Đại Tổ Sư đã sống trọn vẹn, huy
hoàng, thù diệu trong lòng quê hương, Đạo pháp.
“Nội
dung giáo dục Phật giáo Việt Nam vào thời Khương Tăng Hội như
thế, không phải là một nền giáo dục thuần túy Phật giáo hay tôn
giáo, mà là một nền giáo dục tổng hợp toàn diện, có thể
nói đại diện cho nền giáo dục Việt Nam thế kỷ thứ
ba. Nền giáo dục này không chỉ giới hạn trong chức
năng truyền giáo, đào tạo ra những con người Phật
giáo, mà trên hết và trước hết là đào tạo ra những trí thức dân
tộc toàn diện có tánh bách khoa, am hiểu và lãnh hội được
hết tinh hoa dân tộc và nhân loại của thời đại mình,
rồi trở lại đóng góp những thành quả của mình cho kho
tàng hiểu biết của loài người. Cho nên Khương Tăng Hội không
chỉ học ba tạng kinh điển của Phật giáo, không chỉ học sáu kinh
của Nho giáo, và chắc chắn là các giáo khác nữa, mà còn học tới thiên
văn đồ vỹ, khoa ăn nói và nghệ thuật viết lách. Chính nền giáo dục tổng
hợp toàn diện và phóng khoáng này đã đào tạo cho lịch
sử dân tộc những thiên tài trong các lãnh vực khác
nhau, thậm chí đối lập nhau như nghệ thuật và khoa học, chính trị
và âm nhạc, văn và kỹ thuật. Từ Lý Miễu cho đến Lý Công Uẩn,
từ Lương Thế Vinh cho đến Ngô Thời Nhiệm, Từ Lê Ích Mộc cho đến Trần
Cao Vân, từ Tuệ Tĩnh cho đến Võ Trứ, chứ khoan nói chi với Vạn Hạnh,
Chân Lưu, Pháp Thuận, Quảng Đức... Dựa trên học
phong thiết thực, nó đã trang bị cho những đối tượng cần đào tạo những kiến
thức rộng rãi, phóng khoáng của tất cả các ngành tri thức của nhân
loại thời đó, mà không nhất thiết đóng khung vào một chủ thuyết
nào nên đã tạo được những vùng trời tự do cho khả năng tư duy,
và tư tưởng sáng tạo của từng cá nhân.
Nền giáo
dục Phật giáo này không chỉ tồn tại vào thời Khương
Tăng Hội, mà còn được tiếp tục kế thừa, tiếp nối cho đến ngày
hôm nay và mai sau.
Chính
cái cột sống dân tộc ấy đã nâng đỡ cho những người con xa quê khỏi
ngã gục trước gánh nặng của trách nhiệm và trước những cám
dỗ tha hóa của vật chất. Họ có thể đứng thẳng người lên trông ngắm
quê hương gấm vóc và thương nhớ quê hương diệu vợi. Mà quê
hương là gì? Là những câu hò của Mẹ, là nét mặt của Cha, là lời dạy của Thầy và
là nhiều thứ nữa...
Phật
giáo Việt Nam vào thời Khương Tăng Hội đã xây dựng thành
công một cơ cấu giáo dục tổng hợp khá hoàn chỉnh và đa dạng, bao
gồm toàn bộ tất cả các ngành tri thức có mặt ở thời đó mà
không đóng khung vào một giới hạn chật hẹp nào. Người ta không
chỉ học ba tạng kinh điển Phật giáo, sáu kinh của Nho giáo,
còn phải học tất cả khoa sấm ký, thiên văn, thậm chí cả khoa học ứng
đối và đặc biệt truyền thống dân tộc Việt Nam. Nền giáo
dục ấy vì vậy có thể nói là đại diện cho nền giáo
dục Việt Nam vào thế kỷ thứ II và thứ III, đối kháng lại nền giáo
dục nô dịch của Trung Hoa đang tồn tại song song cùng
nó. Nhờ thế, qua lịch sử nó đã đào tạo ra những thiên
tài đáp ứng được nhu cầu của đất nước và tiếp nối cho đến ngày
nay.”
(Khương
Tăng Hội Toàn Tập I - Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh 1975 -
trang 43. Lê Mạnh Thát)
Người
Tù đã bước theo những bước chân đầu tiên của thời đó cho đến hôm nay
còn in rõ, dấu vết, hình hài của những người tù Cha - Hòa Thượng Thiện
Minh chết trong tù năm 1978, Hòa Thượng Trí Thủ bị chích thuốc độc
năm 1984... Hòa Thượng Huyền Quang tù treo lơ lửng mấy
mươi năm ròng rã cho đến nay, Hòa Thượng Quảng Độ cấm cố,
biệt giam và giam lỏng cho đến bây giờ. Ngang qua những chứng
tích hoang tàn, đổ nát, Người Tù chợt mơ giấc mơ kinh dị:
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ xoi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời.”
Bước
vào cõi thơ Người Tù, mông lung huyền diệu quá, cả một trời tâm sự được
gửi gấm qua những ngôn từ sâu thẳm. Tâm sự đó được ký thác từ
thuở còn măng sữa, cưu mang thân phận làm người, đã u hoài một
kiếp nhân sinh, nhiều mộng mị. Càng thấy rõ sự mộng mị đó từ thập
niên 75 về sau ở miền Nam và 45 ở miền Bắc. Người Tù đã đi lên đỉnh
núi nhìn xuống đồng bằng, sự đời trôi qua nhiều nước mắt. Người lầm
than, kẻ cơ cực. Kẻ chiến thắng hung hăng, tàn bạo, với guồng máy thống
trị hà khắc, coi dân như rơm rác, mặc sức đàn áp đày ải. Xã
hội băng hoại, từ đạo đức tâm linh. Một xã hội loạn
tưởng suy đồi, vì lãnh đạo chỉ biết nghĩ đến đời sống vật
chất cá nhân, đất nước nghèo nàn vì những chủ thuyết ngoại
lai.
“... Hoàn
cảnh đất nước Việt Nam như thế cho nên dân ta phải chịu
quá nhiều đau thương và tủi nhục. Đối với giới trí thức nói
riêng, mà xã hội Việt Nam truyền thống rất tôn trọng. Điều
tủi nhục lớn nhất là họ không thể nói thay những người dân thấp cổ bé miệng,
nói lên một cách trung thực tất cả những uất ức, những khổ nhục mà họ
phải chịu. Bởi vì tại Việt Nam ngày nay những người có thể nói
thì ngòi bút đã bị cong; những người muốn nói thì ngòi bút đã bị bẻ gẫy.
Nhưng
tôi rõ một điều, và điều đó đã được ghi chép trong lịch sử: Trí thức chân
chánh của Việt Nam không bao giờ khiếp nhược.”
Đó
là một chút lương tri, tự tình quê hương, dân tộc không thể phôi pha trong
người con dân nước Việt:
Trăng non rỏ máu qua mùa mãn tang
Áo Thầy bạc phếch bụi đường
Khói rêu ố nhạt vách tường dựng kinh.”
Lời Kinh khuya nơi chánh điện chùa Già Lam trầm hùng thanh thoát. Bài kệ trong Kinh Lăng Già được Ôn Già Lam xướng tụng 108 danh hiệu Đức Phật A Di Đà mỗi thời công phu sáng mà thấy lòng mình bình an tĩnh lạc, rải Tâm Đại Bi đều khắp chúng sanh:
Do như hư không hoa
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng Đại Bi Tâm
Nguyện
cầu cho quê hương Việt Nam ngời sáng Tâm Đại Từ Bi.