SƠ TỔ HUYỀN KHÔNG – LĂNG CÔ
Thế là sau mùa an cư năm 1973 tôi về ở chùa Phật Bảo, Phú Thọ Hoà, Gia Định…
Đọc Kinh Sách
… Gần tầng lầu của
ngài Giới Nghiêm ở có một cái phòng luôn luôn khoá cửa, tôi hỏi thị giả của
ngài là sư Thiện Tài mới biết đấy là thư viện. Sư Thiện Tài rất mến tôi nên ổng
hay rủ vào cốc uống trà, cà phê. Tôi hỏi sư mượn chìa khoá thư viện để vào đấy
đọc sách.
Ở đâu cũng bụi bặm,
tôi phải ra tay quét dọn cho sạch sẽ. Rõ là cả chùa chẳng ai đọc cả. Có nhiều
bộ sách dày chưa hề có ai mở ra, ví dụ như bộ Đại cương Triết học sử Trung Quốc
hai tập dày của Nguyễn Hiến Lê, và cả nhiều bộ sách của Nguyễn Duy Cần nữa. Ôi
là cả một kho tàng kiến thức Đông phuơng!
Thế là suốt mấy tháng
trường, tôi làm chủ cái thư viện ấy. Đầu tiên là tôi đọc tất cả các Nikāya, bản
dịch của HT Minh Châu để nắm bắt tư tưởng Nguyên thuỷ cho thật chắc, cho thật
vững. Ở đây “tuyệt đối” chẳng có kinh luận của Đại thừa, vì đối với ngài, đấy
là tư tưởng của những người đi sau. Và ngài cũng không bao giờ khuyến khích các
sư lưu giữ hay đọc các kinh luận của Đại thừa.
Hôm kia, tại thư viện,
tôi đọc được một quyển sách mỏng chừng hơn trăm trang: “Đạo Phật, con đường
hạnh phúc” thấy ghi tác giả Viên Minh – Trần Minh Tài. Quyển sách rất hay. Hỏi
sư Chánh Trí thì được biết: Đấy là sư Viên Minh làm giáo thọ ở đây. Bây giờ sư
ra lập chùa tại đèo Hải Vân, Lăng Cô, Lộc Hải, Phú Lộc rồi, cách đây chừng 9
tháng.
– Còn Trần Minh Tài?
– Ổng là cư sĩ, hằng
tuần phụ trách chương trình Phật Pháp của Nha Tuyên Uý. Do thời lượng có hạn
nên mỗi tuần, Minh Tài nhờ sư Viên Minh viết một bài vừa đủ để đọc trong chừng
15 phút. Đã gần hai năm nay, bây giờ tuyển tập lại in thành sách đó.
Tôi nhíu mày.
Sư Chánh Trí nói:
– Minh Tài mượn danh
một chút đó mà! Sư Viên Minh, sư ấy cũng không chấp!
Tôi yên lặng, tôi đang
nghĩ về quyển sách. Nó hay quá, viết giản dị, dễ hiểu mà chuyên chở được giáo
pháp tinh yếu – nên tôi tò mò hỏi về sư Viên Minh. Thế là sư Chánh Trí kể cho
tôi nghe một số nét về “chân dung” vị ấy. Lát sau, trầm ngâm một chút, tôi hỏi:
– Tại đây, sư Viên
Minh ở phòng nào?
Sư Chánh Trí nói:
– Cái phòng đầu tiên
bên trái, dãy nhà phía trước đang bỏ trống đấy.
Tò mò, tôi đến xem.
Phòng hầu như còn giữ nguyên vì ai ở đây cũng kính trọng sư, muốn để nguyên nên
chưa bị xáo trộn. Phía tường, cao trên bàn viết, còn mấy tờ giấy dán ghi thời
biểu làm việc. Xem thử. Tôi kinh khiếp. Ôi! Cái thời khoá sinh hoạt hằng ngày
của sư đều đặn như chiếc kim đồng hồ.
Tôi nhớ đại khái: Thức
dậy, vệ sinh buổi sớm lúc 3 giờ sáng, sau đó, ngồi thiền, tụng kinh, yoga, thể
dục, quét dọn sân vườn, điểm tâm lúc 6 giờ sáng. Đi trì bình khất thực, hoặc đi
trai tăng, công việc tại chùa. Buổi chiều dài dằng dặc chương trình như chuẩn
bị bài dạy (như soạn giáo án). Dạy 7, 8 môn như Kinh, Luật nghi, Giáo pháp căn
bản, Pāḷi, Abhidhamma, Anh, Hán… Ban đêm sư còn luyện nói, luyện nghe Anh văn;
học Trung văn, luyện nghe, nói Trung văn. Cuối cùng, xem lại một số bài chuẩn
bị dạy ngày mai, 10 giờ hay mười giờ hơn mới “tịnh chỉ”.
Sau đó tôi được biết
thêm: Sư làm Giám đốc kiêm giáo thọ sư Phật Học Viện Phật Bảo này, Tăng sinh
chừng 50 vị. Trên có ngài Giới Nghiêm làm viện chủ. Sư vừa dạy, vừa học. Sư học
xong Cử nhân Phật học Vạn Hạnh khoá 1965-1969, học thêm 16 lớp London School.
Học thêm các môn Pāḷi, Abhidhamma với ngài Santi-Bhadra – một đại sư học giả
người Srilaṅkā.
Tôi tò mò hỏi thêm thì
sư Chánh Trí và sư Tâm Đức còn nói rằng: Kinh sách của sư cả ba bốn tủ lớn, sư
cho chuyển về Huế hết rồi. Trong đó, triết Đông, triết Tây, sách văn học nhiều
lắm. Các quyển như Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh tử; nghiên cứu Thi, Thư,
Dịch của Khổng, Đạo Đức kinh của Lão, Nam Hoa kinh của Trang Tử. Có một số kinh
sách của đại thừa đó là Phổ Môn, Lăng Nghiêm, Lăng Già, Pháp Hoa, Kim Cương,
Viên Giác… với các luận như Duy Thức của Thế Thân, Trung Luận của Long Thọ, Đại
thừa khởi tín luận của Mã Minh (Tủ sách của sư Viên Minh thì ngài không kiểm
duyệt).
Vốn thể chất văn
nhược, vầng trán cao sáng, dáng người mảnh mai, thanh tú – đúng là thần mai,
vóc hạc – nhưng sư đã kiên trì, nhẫn nại với sự học không ai có thể theo nổi,
sánh nổi. Và dạy học cũng thế. Chương trình giờ giấc cũng thế. Ở đó có một ý
chí sắt thép, có sự nghiêm túc vượt bậc, có một kỷ luật tinh thần và kỷ luật
cảm xúc mẫu mực xứng đáng làm gương cho đại chúng. Sư còn là cố vấn cho GĐPT
Gotama mà cả huynh trưởng và đoàn sinh ai ai cũng quý trọng và kính mến. Năm
ấy, sư vừa mới 8 hạ tỳ-khưu. Và tôi còn biết thêm, sư cùng tuổi với tôi, sinh
năm Giáp Thân, 1944.
Tự dưng, tôi sinh ra
mặc cảm tự ti: “Cùng tuổi với mình, mà khi mình vừa chân ướt chân ráo đi tu thì
sư đã đi ‘quy ẩn’ rồi!” Tôi thầm hứa với lòng: Trước sau gì cũng phải ra đó, ra
đèo Hải Vân, Lăng Cô xem cái chùa của vị “ẩn sĩ” này ra sao! Và bắt đầu hôm ấy
tôi lại đâm ra chán đọc sách. Có một bài thơ nói lên cái chán ấy:
Đọc Sách
Bạc đầu, đọc sách mãi sao?
Ngoài kia trăng gió thì thào rong chơi
Kinh thư trắng chữ lâu rồi
Đâu còn hơi thở, nụ cười mười phân!
Ngày chợt qua, tháng lụn dần
Tế bào sinh diệt, mộ phần chờ ta!
Sự sống rung động làn da
Nắng xao cành gió, chim ca mà buồn
Triết Tây chật ứ cả hồn
Triết Đông sương khói chờn vờn đỉnh cao
Kinh chưa mò mẫm mấy nào
Một vài đống vụn rì rào rứa thôi
Đêm nghe lịm chết mặt trời
Hỏi ai, ai hỏi những lời điếc câm!
(Phật học viện Phật Bảo, 1973)
Đầu năm 1974, có dịp
về thăm quê, mấy ngày còn lại ở Huế, như dự định, tôi tìm về ngôi chùa của vị
“ẩn sĩ”.
Chùa nằm phía Bắc đèo
Hải Vân, cách ga Lăng Cô chừng hơn cây số. Đến địa phận chùa nhìn lên thấy một
tấm biển dài chừng 3m, rộng chừng một mét, tựa trên mô đất, nổi bật ba chữ Chùa
Huyền Không, chữ trắng trên nền xanh da trời, xung quanh có hoa văn nhẹ, thanh
nhã, không quá cầu kỳ, quá tỉ mỉ. Nhìn tấm bảng, vị trí đặt, màu sắc và nét chữ
(vì tôi cũng là họa sỹ nghiệp dư), tôi đánh giá được sự tinh tế thẩm mỹ của chủ
nhân.
Qua đường tàu xe lửa,
lên dốc chừng vài ba mươi mét thì bên trái, cổng chùa hiện ra. Cổng chùa cũng
chỉ có mấy thanh gỗ ghép lại, đơn sơ, giản phác.
Bước vào sân chùa, một
mái chùa tranh, tường bằng ván gỗ thông khiêm tốn hiện ra. Đứng nhìn trước sau,
chùa dựa núi và nhìn ra biển xanh và phía bên xa kia là làng chài An Cư Đông.
Địa thế quá đẹp.
Nhìn quanh không có
ai. Bốn cánh cửa bàng khoa chỉ khép hờ. Liếc nhìn bên trong điện Phật thấy
tượng Phật màu trắng, nhỏ nhắn nhưng trang nghiêm, hiền hòa. Tôi bỏ gièm ra,
trật y vai trái vào thắp 3 cây nhang rồi thành kính lạy Phật. Ôi! Ông Phật ở
đây cũng là “ẩn sĩ”, không phô trương lòe loẹt, không chớp nháy đỏ xanh, không
cầu kỳ long phượng! Hai gian hai bên dường như toàn là kinh sách đựng trong mấy
tủ lớn. Người sao cảnh vậy, cảnh sao tâm vậy! Có một năng lượng nhàn thoát, an
bình tỏa ra trong không gian cây và cỏ, núi xanh và đất trời đều xanh xanh!
Quành ra phía sau thấy
một giàn lan rừng rất đẹp. Hai bên là hai khóm trúc vàng. Từng giò từng giò lan
được gắn trên những khúc gỗ chỉ còn lõi, hình dáng đa dạng, hình thù lồi lõm,
khe rãnh, đường vân, thớ gỗ tự nhiên, đẹp như điêu khắc. Chừng hơn trăm giò và
một số đang nở hoa thì được treo phía trước, bên phải, bên trái chánh điện. Một
bờ tường bằng đá ngăn khoảnh đất phía trên cao hơn cũng công phu mà tự nhiên.
Một số cây hoa thân mộc trồng theo mép tường cũng có vẻ được chăm chút cẩn
thận… Dạo một vòng nữa lên đồi trên. Rồi lần xuống con suối bên phải, bên trái.
Còn nữa, còn nữa…
Lúc trở lại thì tình
cờ gặp một người đàn ông đang gánh hai thúng khoai lang, sắn và mấy buồng chuối
từ trên núi xuống.
Tôi hỏi:
– Thưa chú, các sư đi
đâu hết mà chùa vắng tanh thế?
Người đàn ông tạc
trung niên, bỏ gánh trên vai xuống:
– Mấy sư hôm ni đi phố
có việc rồi.
– Thế sao không đóng
cửa chùa?
– Người dân cả làng ni
có ai dám đụng đến của cải, sách vở của quý sư mà đóng với không đóng!
– À, ra là thế!
– Quý sư trí thức lắm.
Lại hiền lành nữa. Tụi tui ở bên làng thường hay đặt bát cúng dường gạo, bắp,
sắn, khoai cho quý sư đó! Rứa sư ở mô ra?
– Thưa, Sài Gòn ạ!
Từ giã người đàn ông,
tôi đến ngồi trên bậc đá, nhìn mông ra biển, trầm tư. Nhiều suy nghĩ ở trong
óc. Nhiều ý tưởng về những giá trị tâm linh. Nhiều cảm xúc không nói được.
Tôi có làm một bài thơ luật Đường, như một lời tán thán cảnh và người ở đây:
Huyền Không ai dựng giữa đồi mây
Trời xa, biển ngậm hồn nhân tục
Rừng quạnh, non phơi dấu hạc gầy
Hai nẻo suối về, xanh bể Bắc
Một giàn lan tỏa, ngát đồi Tây
Hồn chiều trải rộng mười phương đạo
Ngợp giấc thiền, quên kiếp cỏ cây!”
Tôi dán bài thơ ấy nơi
cánh cửa bàng khoa, sau đó tôi rời chùa, xuống ga đón tàu vào Đà Nẵng rồi trở
lại Sài Gòn.
… Cuối năm 1974, tôi
lại về Huế, về Hải Vân-Lăng Cô.
Chân đi giữa đám bụi hường
Ai chào, ai hỏi, vô thường ngoài tai
Tình đời nhẹ hẫng đôi vai
Hành hương cô lữ, biết ai bạn cùng
Bây chừ được cái thung thung
Được thêm dấu hỏi, vô cùng, còn nguyên!
(1974)
Một bước xa quê du viễn phương
Lòng như gió sớm thổi ven đường
Cây lá ba đời còn ngủ cả
Chẳng lẽ ta đi mãi suốt mùa sương
Thêm mỗi bước đi, đường đời không ngắn lại
Lối xưa kia chờ đợi mấy huân tà
Nắng bạc đầu rồi, ta về muộn quá
Trong lòng con mấy khúc điệp trùng ba
Ai hỏi, ai chào – tám phương tịch mịch
Gió qua hoài có vướng nỗi nào chăng
Sầu có thoảng, chân mây dài với đất
Tay ôm vòng thiên địa giữa mùa trăng
Nói đã mệt, ta thầm thì với lá
Sương qua đêm còn đọng ngọc bên trời
Ôi! Lạ quá, niềm riêng dường như đã
Lá lìa cành, nuối cội, chẳng buồn rơi
Một bước ra đi, chẳng chờ chẳng đợi
Đó đây đi, đây đó để tình cờ
Ta im lặng, biển sâu dù tiếng gọi
Biển khô rồi, ta vỡ muối đề thơ!
(1974)
Thế là tôi đã đến chùa
Huyền Không có cảm giác như trở lại quê nhà sau nhiều kiếp bôn ba luân lạc.
Khi viết những dòng
này, tôi chợt nhớ đến bài thơ của ngài Viên Minh, nó rất đúng với cảm xúc của
tôi thời bấy giờ:
Trăng vẫn mảnh trăng này
Ngàn sau, ngàn sau nữa
Lồng lộng giữa trời mây!”
Nhập Chúng
Vậy là tôi đến đây,
chừng tháng 11, 12 gì đó năm 1974 khi mái chùa tranh và những công trình phụ
đơn sơ đây đó đã đi vào sinh hoạt.
Tôi không nhớ tôi được
nhập chúng như thế nào, ký ức không lưu lại hình ảnh nào cả. Có lẽ là dễ dàng,
tự nhiên rứa thôi. Và mọi người đều mỉm nụ cười vui, bình an, thanh thản. Nghe
nói là chùa mới bế giảng một khóa học, sư Viên Minh giảng dạy. Ngoài các vị
tỳ-khưu như sư Tịnh Pháp, sư Hộ Chánh, sư Trí Thâm, sa-di là sư Tấn Căn, còn có
một vị tỳ-khưu Bắc tông là thầy Tâm Hạnh ở Đà Nẵng ra trọ học. Vị này sau tu
theo Nam Tông, tôi có gặp nhiều lần ở Việt Nam cũng như ở Mỹ. Lúc tôi về đây
thì nghe nói sư Chung đã vào Nam. Có một giới tử tên Nam rất giỏi và rất hiền.
Chỉ có chừng ấy thôi.
Ngoài chánh điện chừng
5×7 mét thờ Phật, hai tủ kinh sách lớn, các chỗ ngủ nghỉ ở xung quanh nên rất
chất hẹp, tù túng sinh hoạt. Khi tôi ở đây, sư Viên Minh có cho làm thêm một
tiền đường cũng cỡ 5×7 mét, giản dị bằng tole trông thoáng mát, rộng rãi. Lên
mấy bậc cấp bằng đá ghép, đồi trên, đi chừng 20 mét, sát núi có căn nhà bếp
bằng tranh tre thô mộc, có một bàn ăn là một sạp gỗ, phía trên đặt hai cái bàn
nhỏ để dùng cho chừng 6 vị ngồi xếp bằng độ thực là hết chỗ.
Trên sườn núi, từ nhà
bếp đi lên, có làm hai cốc gỗ, chừng 3×4; một để cho sư trụ trì ở, một để dành
cho khách đặc biệt. Ở đây chư tăng tắm giặt dưới giếng, ngoài trời hoặc hai con
suối hai bên, nước trong vắt. Nhà vệ sinh thì tạm bợ, chưa có khả năng làm hố
xí tự hoại. Và hết. Nghèo và đạm bạc như vậy đó.
Tôi có một bài thơ,
sáng tác chỉ vài ngày sau khi ở đây:
Ngập ngừng bên lối sỏi
Chiều mùa đông lưa thưa
Chim về vùng yên tĩnh
Tiếng hót loãng âm thừa
Ngồi như quên tiền kiếp
Hương lan gọi ta về
Bóng trăng vàng nương rẫy
Rải thảm vàng hoang khê
Hoa cỏ chào mừng ta
Rung rinh sau mành gió
Khóm trúc gầy đung đưa
Giọt sương khô trên lá
Mây tìm về núi cũ
Đã bạc hết màu xanh
Thương cành khô bỏ bụi
Nằm dài ngủ hiên tranh
Tiếng chuông ru thiền định
Đêm đã sâu bên đồi
Xôn xao lời vách đá
Một vì sao đổi ngôi!
(1974)
Đá Sỏi Cũng Thành Cơm
Mấy ngày hôm sau, đi
thăm thú và quan sát toàn bộ đất vườn rừng, tôi mới thấm thía sức lao động kinh
khiếp của chư Tăng. Gọi là đất, là vườn nhưng ở đâu cũng đá, đá chồng chất đá,
tảng to, tảng nhỏ chèn khít bên nhau. Muốn lấy một khoảng trống để trồng khoai
lang, thế có nghĩa là phải ra công sức lấy hết tất cả đá sạn ở đấy đi. Trồng
sắn thì dễ hơn, hễ chỗ nào có chút đất, cạnh hốc đá cũng được, chỉ cần cái
xà-beng hay mũi cúp, thọc một lỗ bỏ hom sắn xuống là được. Nhưng trồng một gốc
chuối hay trồng một cây mít thì công sức lại càng kinh khiếp hơn. Lỗ trồng
chuối hay một cây mít phải đào một cái hố chừng 1 mét khối, mà đa phần phải lấy
hết đá tảng lớn nhỏ xung quanh. Thế là cúp, xà-beng phải xeo, phải nạy. Có
những hố thì nguyên một khối đá lớn nằm “chình ình” ở giữa, chân cắm rất sâu.
Thế là phải lấy đinh nỏ và búa tạ đục từng mảng, từng mảng. Chân rướm máu, tay
rướm máu mới được vài ba hố. Thế mà khi tôi đến đây, các sư đã trồng hằng trăm
gốc mít rồi, đang phát triển vững vàng, xanh tốt. Còn chuối, nhất là chuối ba
lùn nằm đầy cả mấy triền suối. Khoai lang thì chỉ trồng mấy vạt đất, củ rất
nhỏ. Riêng sắn thì bạt ngàn nương rẫy.
Kể đến ngang đây tôi
nhớ đến cái giếng rất đặc biệt. Giếng tròn đường kính chừng hơn một mét, xây
bằng đá, sâu độ một mét thôi – mà nước trong leo lẻo, không bao giờ khô cạn.
Tắm giặt ăn uống, tưới cây cái giếng này trung thành cung ứng bốn mùa. Xung
quanh thành giếng tráng bằng xi măng, khi tắm giặt nước chảy tràn, được hướng
dẫn ra hai bên mương nước và ở đây được trồng môn ngọt, bạc hà xanh tốt quanh
năm, và nó dường như là cung ứng cho những bữa ăn: Nấu canh, làm chua hay bóp dấm…
đều được cả. Mấy vạt đất trống cạnh giếng, lại trồng chuối ba lùn, từng buồng,
từng buồng dài cỡ sải tay!
Những công việc nặng
nhọc này thường là sư Viên Minh và sư Trí Thâm đảm nhận, đôi khi có sư Tịnh
Pháp. Sư Tấn Căn dáng thư sinh, “thân mai, vóc hạc” không làm việc nặng được,
sư ấy chỉ phụ giúp việc nhẹ. Sư Hộ Chánh vì là thợ mộc nên nhận công việc đóng
bàn, đóng tủ, đóng tất cả các đồ dùng cần thiết. Sư Trí Thâm năng nổ, xốc vác
và nhiệt tình nhất, nhất là xeo, bẩy hay đục đá. Sư Viên Minh bên cạnh lại là
người đưa ý kiến, tìm thế, tìm cách cho công việc nhẹ nhàng hoặc có hiệu quả
hơn. Thế là việc nặng thành nhẹ, việc chậm thành nhanh hơn. Ngài có cái trí
thông sáng không ai bì được.
Tôi cũng chân yếu tay mềm, nhưng việc nặng nhọc tôi làm cũng khá tốt, không thua ai. Tôi đồng sự với mọi người khá dễ dàng trong mọi công việc. Có điều là ai cũng thiếu ăn cả, lúc nào cũng đói. Buổi sáng thường dùng một tô cháo, với cá khô hay với muối ớt. Ăn sắn, ăn khoai với đậu muối mè, thế là khoảng 9 giờ ai cũng cảm nghe đói, dường như là không còn sức lực. Biết điều đó nên sư Viên Minh cho sư Tịnh Pháp và sư Hộ Chánh, thỉnh thoảng nghỉ làm. Sau khi dùng sáng xong, hai sư ôm bát xuống dưới chân chùa, gần quốc lộ đón xe vào Đà Nẵng để đi trì bình khất thực. Thuở ấy, các sư vào ra, đi đây đi đó rất dễ dàng vì bất cứ xe nào họ cũng cho quá giang. Xe đò, xe bồn, xe cá nhân hay xe quân đội, thấy các sư họ đều cho đi cả nếu còn chỗ trống. Vậy nên, vào Đà Nẵng, xuống chợ Cồn đi bát chừng nửa tiếng thì đã đầy bát, đầy cả chiếc “gièm” mang theo. Chừng 9 giờ hay 9 rưỡi là các sư đã có mặt ở chùa rồi, và vật thực, nhất là đồ ngọt để tiếp thêm năng lượng cho người lao động. Đôi khi sư Tịnh Pháp “khôn hơn”, vào Đà Nẵng, sư không đi bát mà lại ghé nhà Phật tử thân cận, thế là khi trở về chùa, vật thực dồi dào, đa dạng hơn, đôi khi cả chùa sử dụng vài ba ngày không hết
Linh Tinh Sinh Hoạt
Nghe kể lại rằng, năm
đầu tiên về đây, chư sư thường hay đi bát bên làng An Hải, đa phần là gạo, thêm
sắn, khoai. Đi bát gạo một lần là có thể đủ cơm ăn cả tuần lễ. Nhưng sau này,
chùa công việc nhiều quá nhất là nương rẫy, cây ăn trái và tạo cảnh, tạo hình
góc núi này, triền suối khác… nên phải tạm ngưng. Lâu lâu đi một lần để giữ gìn
hình ảnh thôi.
Thường buổi sớm 4 giờ
thức dậy, vệ sinh cá nhân xong là tụng kinh, hành thiền. Hơn 5 giờ là tập thể
dục hay tập yoga, 6 giờ là dùng sáng. Dùng sáng xong, sư Viên Minh bao giờ cũng
vác cúp, cuốc hoặc rựa đi trước, huynh đệ không ai “nằm ngả nằm nghiêng” được,
cũng vác đồ nghề theo sau, đa phần là lên núi. Chừng 10 giờ nghỉ việc, tắm giặt
gì đó, gần 11 giờ là độ ngọ. Trưa tịnh chỉ chừng 1 tiếng, chừng 13g30 là ai có
công việc nấy. Sư Viên Minh đọc kinh, sách, nghiên cứu hoặc viết lách. Mọi
người cũng thế.
Tôi về đây nhằm lúc
không có khóa học nào nên được chương trình tự do vào buổi chiều. Tối, sau thời
khóa công phu mọi người quây quần ngoài tiền đường, uống trà, uống nước lá, có
sữa dùng sữa, có đường, kẹo thì dùng đường, kẹo. Dịp này, Sư Viên Minh thỉnh
thoảng nói chuyện, có lẽ xoay quanh mấy chủ đề:
– Công việc ngày mai,
hoặc là trồng thêm chuối, mít, cam chanh, bưởi, ổi… gì đó, hoặc là sửa sang con
đường lên cốc, xuống hai con suối Thanh Tâm, Tịnh Thủy; hoặc phát dọn lau sậy,
lùm bụi ở sau lưng hai cốc gỗ, phát lan lên núi để đề phòng hỏa hoạn.
– Đi Đà Nẵng hoặc Huế
mua sắm dụng cụ sinh hoạt, vật dụng lao động hoặc đồ dùng bếp núc…
– Thỉnh thoảng, thỉnh
thoảng thôi – ngài Viên Minh khích lệ anh em về đời sống cần lao vất vả. Trong
sinh hoạt có gì phát sanh liên hệ đến giáo pháp, đến sự tu học thì ngài xoáy
sâu vào căn bản, tinh yếu nhất của Phật học. Khi cần phân tích thì ngài phân
tích rất cặn kẽ, chi li mà vẫn bằng ngôn ngữ dị giản, hình ảnh cụ thể ai cũng
có thể nắm bắt được.
Tôi không nhớ quãng
thời gian nào, nghe kể lại, huynh đệ lủi núi tìm phong lan. Tức là nếu leo núi
về bên trái chùa, lội qua một vài con suối, đi mãi và đi sâu vào chừng một vài
cây số là bắt gặp rừng già gần như nguyên sinh. Rất nhiều lan rừng bám trên
những gốc thụ. Có loại, ví như lan Nghinh xuân (Đai châu) thì nằm trên cao. Lan
Thủy tiên, Cẩm báo, Dã hạc, Giáng thu, Song tử ngọc… thì nằm thấp hơn. Nếu đi
trúng chỗ thì nó là cả một kho tàng thiên nhiên vậy. Đây là những loại lan đẹp
ai cũng thích, cả hương và sắc, ngoài ra, còn rất nhiều loại lan khác nữa ví
như Trường kiếm, Đoản kiếm! Và còn nữa.
Thấy lan nhiều quá, ai
cũng ham, lôi và gỡ xuống từng bè, từng cụm. Thấy vậy, sư Viên Minh ngăn lại:
– Không nên làm thế!
Mình ngắm nghía cái khóm nào đẹp nhất, hoàn chỉnh nhất thì cắt gỡ khóm ấy ra,
còn bao nhiêu nên để lại nguyên trên cây vậy, trả lại cho tự nhiên.
Đây là bài học bảo vệ
môi trường mà các sư Huyền Không học được trong những lần đi lấy phong lan từ
ngài Viên Minh.
Lấy lan xong trở về,
qua các con suối, lúc nào các sư cũng đi lùng những gốc gỗ mục, chỉ còn lõi,
mang về để gắn lan. Có nhiều gốc như điêu khắc, như chạm trổ tinh tế rất đẹp,
như một tác phẩm mỹ thuật. Cũng nhờ giàn phong lan địa phương phong phú này mà
khách vãng lai rất yêu thích. Các vị linh mục trong vùng qua chơi thăm hỏi, xem
phong lan, uống trà. Quý thầy, các ni cô hoặc Phật tử Bắc tông ở Huế hay Đà
Nẵng, họ cũng ghé thăm. Các giáo sư đại học, các vị trí thức có công việc vào
ra Huế - Đà Nẵng nhìn thấy bảng hiệu Huyền Không thanh nhã, tò mò, họ cũng dừng
xe lên xem chơi cho biết. Ai cũng thấy các sư còn trẻ, đi đứng, ăn nói có cốt
cách, lại nhìn vào mấy tủ kinh sách lớn, họ đều chung cảm nghĩ: Là những bậc
chân tu, ẩn sĩ!
Và tôi cũng học thêm
một bài học thứ hai. Tôi nhớ có một lần vì một số công việc phải hoàn thành gấp
nên sư Viên Minh đề nghị anh em lao tác thêm buổi chiều. Dĩ nhiên, huynh đệ ở
đây xem như là không có vấn đề. Công việc làm cúp, cuốc, xà-beng, búa tạ, nỏ
đá… khá nặng nề suốt ba ngày mới xong.
Đêm ấy, 4 giờ sáng, sư
Viên Minh dậy đánh chuông công phu. Nghe tiếng chuông rất nhỏ nhờ tôi đã tỉnh
ngủ, bước ra, tôi hỏi nho nhỏ:
– Sao hôm nay sư huynh
đánh chuông nhỏ quá vậy?
Sư cũng trả lời nhỏ:
– Mấy bữa ni anh em
lao động vất vả. Huynh đánh chuông nho nhỏ là không muốn đánh thức anh em, để
cho họ ngủ, sức trẻ họ thèm ngủ lắm!
Đầu năm 1974, như có
kể ở trên, khi tôi ghé thăm đây, chùa không có ai, tôi có để lại một bài thơ
luật đường dán nơi cửa bàng khoa chánh điện:
Lãng bước du phương lạc chốn nầy
Huyền Không ai dựng giữa đồi mây
Trời xa biển ngậm hồn nhân tục
Rừng quạnh non phơi dấu hạc gầy
Hai nẻo suối về xanh bể Bắc
Một giàn lan tỏa ngát sườn Tây
Hồn chiều trải rộng mười phương đạo
Ngợp giấc thiền quên kiếp cỏ cây!
Rồi khi về đây, chừng một tháng sau tôi làm tiếp một bài nữa, liên hoàn, khi biết đỉnh núi mây trắng trên dãy Hải Vân, sư Viên Minh đặt tên là Bạch Vân Sơn, giữa lưng chừng núi có một cái hồ thiên nhiên, sư đặt tên là hồ Hàm Nguyệt, và hai con suối hai bên chùa sư đặt tên là Thanh Tâm và Tịnh Thủy.
Phong sương y đã bạc vai gầy
Lối lên bát ngát hương đàm quyện
Nẻo xuống mịt mùng lửa não vây
Tịnh Thủy: Nước reo mùi giác hạnh
Thanh Tâm: Lòng lắng vị trần say
Giữa hồ Hàm Nguyệt: Trăng thiên cổ
Gởi Bạch Vân sơn chút vọng nầy!
Mấy chục năm tôi tâm đắc hai bài thơ luật đường liên hoàn này lắm. Bây giờ khi chép lại tôi thấy nó chưa hoàn thiện, chưa chỉnh chu cho lắm. Bài đầu, “nhân tục” và “hạc gầy” chỉ là đối gượng. Bài hai, cũng vậy, “giác hạnh” và “trần say” cũng đối gượng. Hán phải đối Hán, thuần Việt phải đối thuần Việt mới ngon lành. Bây giờ nếu chỉnh sửa cũng được nhưng mà lâu quá, qua thời gian, nó đã sống với sinh mệnh của nó rồi.
Các Chùa Nguyên Thủy Ở Huế
Thuở ấy, PGNT ở Huế
chỉ có mấy chùa lèo tèo và chư Tăng cũng ít ỏi. Chùa Thiền Lâm ở đồi Quảng Tế,
ngoài ngài Hộ Nhẫn trụ trì ra, còn các vị tỳ-khưu là sư Định Lực và sư Hộ
Chánh. Sa-di thì có sư Hộ Tịnh, sư Hộ Tín và sư Tâm Lạc (vị này chừng 12,13
tuổi). Sau tiếp nhận thêm một khoảng đất tại làng Trúc Lâm, ngài cho sư Hộ Tịnh
và sư Hộ Tín sang đây tiếp quản, xây dựng được một ngôi chùa nhỏ. Sư Hộ Chánh
sau về Huyền Không. Sư Định Lực khi ở Thiền Lâm khi sang bên Trúc Lâm. Phía bên
dưới chùa Thiền Lâm, ngài Hộ Nhẫn cũng thành lập một số am thất cho các tu nữ
như cô Từ Niệm, Từ Minh, Từ Ngọc… và còn thêm ai đó nữa.
Chùa Tăng Quang ở Gia
Hội thì ngoài sư Giới Hỷ trụ trì, còn có sư Huệ Trí và sư Huệ Tâm- tức Tuệ Tâm
bây giờ (còn mấy vị nữa mà tôi quên). Sau sư Giới Hỷ có được một mảnh đất 10
ngàn m2 ở đồng An Cựu, sư cho lập ở đây thêm một ngôi chùa nhỏ là chùa Pháp
Luân rồi cử sư Huệ Trí sang đây. Ngoài ra còn có ngôi chùa nhỏ là chùa Định
Quang tại làng Giạ Lê thượng, do ngài Giới Nghiêm kiến lập, sư Giới Hỷ cũng cho
các sư thay nhau về ở.
Chư sư Huyền Không nếu
có đi Huế thì vào những lúc các chùa hoặc phật tử thỉnh mời. Dịp này có thể
nhân tiện mua sách báo, đồ dùng vặt vãnh, cũng có thể về thăm nhà hoặc đi chơi
đâu đó vài ba ngày. Đôi khi đi riêng mà cũng có thể đi cả chùa. Nếu đi hết thì
cửa ngõ mở toang, các tủ kinh sách mở hờ và chẳng bao giờ mất mác đồ gì cả. Nếu
đi riêng, ví dụ cần tiền xe hoặc chi tiêu vặt vãnh thì cứ đến nơi tủ tiền –
cũng là tủ sách – ở đó luôn có chìa khóa nằm nguyên trong ổ. Mở bên trong có sẵn
một quyển sổ thu chi và tiền nằm trong hộp gỗ. Ai muốn lấy bao nhiêu thì lấy,
lấy tiền xong, ghi nơi khoản tiền chi. Ví dụ, tôi, sư Giới Đức, chi năm đồng đi
Huế. Sau công việc, về lại chùa, nếu còn thừa một đồng, hai đồng, thì ghi lại
trong sổ thu: 2 đồng, sư Giới Đức đi Huế còn dư! Vân vân và vân vân. Hoàn toàn
tự giác, không ai kiểm soát ai!
Chỗ này cũng nên nói
thêm, là chùa Huyền Không thuở ấy có đời sống lục hoà, tứ nhiếp nghiêm túc,
đẹp, hài hòa và gương mẫu nhất. Ngoài đời sống tu tập, sinh hoạt đều tự tri, tự
giác – lấy bài kinh Gosiñga làm mẫu mực – mà trong việc sử dụng tứ sự cũng đẹp
như thế. Ngoài tiền bạc dùng chung, không có sở hữu cá nhân ra thì y áo, khăn,
mùng, gối, chăn, kem bót, dao cạo râu, vở, bút… đều để chung một góc tủ, ai có
nhu cầu thì cứ lấy sử dụng. Khi có đường, sữa, kẹo, bánh gì đó cũng có một góc
tủ riêng, ai muốn lấy dùng, tùy ý. Năm 1978, chùa dời lên Huyền Không Nham
Biều, và sau này ở Huyền Không Sơn Thượng, tôi đã cố gắng giữ gìn cái đẹp
“truyền thống” ấy, nhưng quả thật không thể bằng “hồi xưa” được. Chỉ được vài
ba phần như noi gương thôi. Truyền thống trí thức phải có con người trí thức,
truyền thống tốt đẹp phải có con người tốt đẹp! Riêng tủ tiền thì nhất định
phải có ổ khóa rồi! Thật là đau xót! Phật giáo thoái hóa không phải do giáo
pháp mà rõ ràng là do con người!
Sư Viên Minh có đi Huế
thì cũng ghé thăm ông bà thân sinh đã già ở cạnh Tỳ-bà trang, thăm chú Ba, thăm
ngài Hộ Nhẫn hoặc ghé chùa Tăng Quang (Sư Viên Minh quê quán làng Đạo Đầu,
huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị trong một gia đình nông dân trung lưu, giữ
gìn nếp sống cổ truyền Khổng Mạnh nhiều đời. Ông là đứa con út trong một gia
đình có sáu trai và hai gái. Thân phụ, thân mẫu tuy làm ăn lam lũ, quanh năm
tay lấm chân bùn, tảo tần ruộng nương, một nắng hai sương, nhưng đều cho con
cái ăn học tới nơi tới chốn. Sư bẩm chất thông minh, có hiếu từ, nghĩa nhân từ
nhỏ do truyền thống đạo đức gia đình. Lại còn do nhờ ông chú, em cha – Nguyễn
Hữu Ba. Chú có bút hiệu là Đạo Tâm, là người đầu tiên áp dụng ký âm pháp vào cổ
nhạc Việt Nam (năm 1932), thành lập viện Tỳ-bà nhằm phục hưng quốc nhạc. Ông
thuyết phục cả gia đình cùng những người con trai vào Huế ăn học. Là một trí
thức Khổng Nho, có thêm tân học, có nghiên cứu Phật trong giai đoạn phục hưng
các năm ông ở Huế, chú Ba dường như đã dẫn dắt tất cả mọi người theo Phật giáo
Đại thừa. Sư có một người anh, là hòa thượng Pháp Nhẫn, sau khi đỗ tiến sĩ Phật
học tại Ấn Độ, ngài sang Hoa Kỳ lập chùa Liên Hoa tại Texas, khoảng năm 1981.
Sư cũng có một người anh khác, giáo sư Toán Lý, về già cũng xuất gia, ở tại
chùa Thiền Lâm, có pháp danh Từ Trí. Còn có ba người anh khác, ông anh cả có
tên Nguyễn Duy Cẩn làm thứ trưởng, chuyên gia điện ảnh. Một ông anh nữa, Nguyễn
Hữu Lệ, làm lính quân nhu, sau về nhà lo việc hương hỏa. Ông anh kế là Nguyễn
Hữu Vấn, gốc giáo sư âm nhạc, sau làm chủ tịch MTTQ thành phố và tỉnh. Họ đều
có gène trí thức, thành công, thành danh cả).
Sư Tịnh Pháp, sư Tấn
Căn đều quê ở Huế nên cũng hay về thăm nhà. Sư Trí Thâm gốc Quảng Trị, nhưng
thuở ấy cha mẹ còn ở ngoài vĩ tuyến 17, có lên Huế thì cũng ghé chùa Tăng Quang
hoặc chùa Pháp Luân để uống trà, uống cà-phê với sư Huệ Trí. Sư Tấn Căn và tôi
cũng thường ghé đây, do có cái gác gỗ ngồi chơi rất thú vị.
Khi tôi về làng, các
anh trong gia đình Phật tử thường đến hỏi tôi về giáo pháp. Đến lúc này thì tôi
có thể trả lời cho họ thấy rõ các kinh điển Nikāya mới thật sự chở mang tư
tưởng gần với chính thống, gần với lời giảng dạy Nguyên thủy của đức Phật. Và
thuở ấy, tôi cũng đã cho họ biết khái lược đâu là đức Phật lịch sử có thật và
đâu là đức Phật tôn giáo được trước tác về sau. Và khá nhiều kinh hoàn toàn
ngụy tạo của Tàu, bây giờ vẫn còn nguyên trong Đại tạng kinh của Đại thừa.
...
Sống Giữa Bom Đạn
Do địa thế chùa Huyền
Không nằm sát lộ mà sau lưng là núi nên đây được xem là yết hầu vào ra Huế-Đà
Nẵng. Nếu chiếm được con lộ (quốc lộ 1) trước chùa thì xem như Huế-Đà Nẵng bị
cắt đứt.
Điều này mình là
thường dân cũng thấy thì quân lính hai bên, quốc gia và cộng sản làm sao họ lại
không thấy được? Do vậy, ở hai bên cầu Lăng Cô – cách chùa chừng 7,8 trăm mét,
nhiều nhất là phía bên này bao giờ cũng có một đại đội địa phương quân trấn
giữ. Chưa thôi, thỉnh thoảng, một tiểu đoàn biệt kích dù, biệt động hay thủy
quân lục chiến, kết hợp với địa phương quân, họ hành quân lên núi, tràn rộng ra
cả những sườn núi từ Bắc vào Nam đèo Hải Vân. Lúc có đụng độ, lúc không! Mà khi
đụng độ thì quân lính phe quốc gia luôn luôn bị tổn thất. Chẳng biết quân du
kích hay quân chính quy bộ đội miền Bắc núp trốn ở đâu, mà hễ khi lên tới gần
đỉnh, là chỉ nghe vài loạt súng, thế là quân quốc gia sẽ có người chết hoặc bị
thương. Có lần, đứng dưới chùa nhìn lên, các sư thấy những chiếc cáng khiêng
lính bị thương vong. Hai chiếc cáng, ba chiếc cáng… Vậy là có ba người không
chết cũng bị thương!
Thấy tấn công bằng bộ
binh thất thế, quân đội rút xuống núi, đôi khi họ tràn vào nghỉ ngơi trong
chùa. Lát sau những quả đạn pháo từ biển nã vào, họ cứ nhắm những cụm đá sát
đỉnh núi mà rót. Nhưng rất khó trúng mục tiêu, tất cả dường như bị trượt đi,
rơi tõm xuống sườn, xuống vực. Các sư thường đứng nhìn lên, và lạ lùng, không
ai sợ hãi cả.
Có lần, một đoàn xe
GMC chở lính đi ngang quốc lộ 1 dưới chùa, vào Đà Nẵng hay lên đèo cũng không
rõ. Không biết tình báo VC nắm bắt sự chuyển quân này như thế nào mà từ trên
núi, họ nã pháo xuống. Hằng chục quả như vậy, không biết là loại đạn gì, nó nổ
rất lớn, khoét sâu đất đá và tung bụi mù mịt. Có ông sư Tâm Lạc, chừng 12, 13
tuổi, từ chùa Thiền Lâm về chơi, thấy đạn pháo ông tò mò, ra đứng trên đầu
tường đá nhìn xuống đường, xem đạn pháo rơi! Và cũng xem lính bỏ chạy lên chùa.
Tâm Lạc bị một miểng pháo rất nhỏ trúng chân chảy máu, ông la ơi ới, “Con chết
rồi, con chết rồi, sư ơi!” Các sư lại xem thấy nó chỉ sướt ngoài da nơi chân!
Có điều lạ ở đây, là
chùa chỉ có vách ván đơn sơ, chẳng có nơi nào núp trốn bom đạn được, vậy mà ai
cũng tỉnh bơ khi hai bên đánh nhau, “cắc đùng, cắc đùng” lẫn đạn pháo ì ầm cả
nhiều tiếng đồng hồ. Đến nỗi, thấy những điểm chốt dưới đường nguy hiểm, lính địa
phương đôi khi lại lên trên chùa, an toàn hơn?! Lạ lùng là tất cả đạn pháo, từ
biển vào hay từ trên núi xuống đều rơi xung quanh chùa, không bao giờ trúng
chùa! Các anh lính địa phương cũng đồng một nhận xét như vậy. Họ nói, ở đây có
Phật độ!
Có lần, khi ấy khoảng
10 giờ, tôi và sư Viên Minh đang đánh cờ tướng bên chái hiên chánh điện, phía
bên nhà bếp, nghĩa là phía có thể nhìn thấy giếng nước. Chúng tôi đang trầm
ngâm tính nước cờ, thì chợt nghe một tiếng nổ lớn phía dưới giếng, cát sỏi va
đập rào rào và bụi tung mịt mù. Sư Trí Thâm sợ hãi hét lớn “chết rồi, chết
rồi”, đồng thời bên tai tôi nghe hai vật gì bay vèo qua. Sư Trí Thâm không bị
gì cả và đang hớt hãi ôm y áo từ dưới giếng chạy lên, mặt xanh mét. Còn hai cái
vật kia nó ghim vào tường gỗ. Hóa ra là hai mảnh sắt nhỏ, bay vèo qua mép tai
sư Viên Minh và mép tai tôi rồi găm cứng vào tường gỗ. Khi ấy, bàng hoàng, tôi
lấy tay sờ mảnh sắt, nó còn nóng! Khiếp! Tôi và sư Viên Minh đều hú hồn, vì chỉ
cần nhích vài ba ly nữa là hai mảnh sắt sẽ đi xuyên qua sọ não hai người!
Khoảng tháng giêng hai
gì đó năm 1975, ở nơi này dường như chiến sự càng ngày càng ác liệt hơn. Do các
điểm mà VC trấn giữ ở gần đỉnh núi Bạch Vân vẫn bất khả xâm phạm, gây bất an
ninh cho toàn vùng Bắc Hải Vân nên quân đội họ thay đổi chiến thuật. Có lần, họ
dùng trực thăng thả quân lính trên núi phía Nam rồi hành quân ra mạn Bắc. Họ
bao vây cả sườn núi, từ đỉnh trên cho đến sườn dưới. Nghe nói, khi họ tấn công
vào các cụm đá khả nghi, luồn được vào trong thì hóa ra, VC đã trốn thoát cả
rồi! Dấu tích còn lại trong các hang, bi đông nước, lương khô, vỏ đạn rơi vãi,
dấu chỗ bắn, chỗ ngồi, chỗ nằm, ăn uống… họ xác định được, mỗi nơi như vậy chỉ
có ba người, gọi là “tổ tam tam”! Cả các sườn gần đỉnh này chỉ có ba cụm đá,
vậy là VC chỉ có 9 người; chỉ 9 người, nghĩa là chỉ có 3 “tổ tam tam” mà mấy
tiểu đoàn lên cũng không được, do địa thế quá hiểm yếu, quá an toàn trong hốc
đá. Lần này thì thắng lợi chiếm lĩnh được trận địa, vào tận hang ổ nhưng không
bắt được ai!
Sở dĩ các sư biết rõ
chuyện như vậy, là vì sau khi “chiến thắng”, xuống núi, có một đơn vị, hóa ra
là biệt kích dù, họ trang bị tận răng, quân phục rằn ri dữ dằn, họ vầy bên
ngoài sân chùa để ăn uống. Tuy là lương khô thôi, nhưng bánh mì, hộp thịt, hộp
trái cây, hộp xúp đủ loại bày la liệt, có cả bia, rượu nữa! Và sau khi dùng
xong, một số lính vào chùa uống trà, uống nước lá, họ kể chuyện lại. Hóa ra họ
rất hiền lành và tốt bụng. Họ thăm hỏi đời sống trong chùa, ăn uống ra sao, bom
đạn ở đây nguy hiểm, sao không dời đi nơi khác? Khi đi, họ thu dọn sạch sẽ,
đàng hoàng.
Còn nữa, còn nhiều nữa nhất là những trận bom đạn xảy ra ban đêm, pháo của hai bên cũng chỉ rơi quanh chùa, luôn luôn tránh chùa như một phép lạ!
Chay, Mặn
Khoảng tháng hai,
tháng ba gì đó năm 1975, sinh hoạt nhà chùa vẫn giữ nguyên chương trình nề nếp
cũ. Vẫn công phu hai thời, buổi sáng lao động hoặc đi khất thực, buổi chiều mọi
người tuỳ nghi đọc kinh sách. Buổi tối uống nước lá, ăn kẹo, ăn đường và nói
chuyện này, chuyện kia liên hệ sinh hoạt hay tu tập.
Chùa có thêm người về
xin ở, đó là sư Trí Tâm, tức là Nguyễn Thanh Phong, người Giạ Lê cùng làng với
tôi, nhà ở bên phải trước cổng chùa Linh Sơn. Cũng là đệ tử ngài Giới Nghiêm,
ông sư này trắng trẻo, dáng dấp thư sinh, học hành không nhiều nhưng tạm coi là
tốt vóc, tốt tướng. Có điều là ông chăm sóc cái thân nhiều quá. Y áo bao giờ
cũng láng lẩy, phẳng phiu, râu tóc bao giờ cũng nhẵn nhụi; mỗi lần ông rửa mặt,
rửa tay, rửa chân… kỳ cọ đây đó cho sạch sẽ, thường mất khoảng mươi phút! Người
chăm sóc cái thân, thuộc “quán quân” thứ hai là sư Hộ Chánh, chỉ thua vị kia
một chút xíu.
Còn trình độ giáo pháp
và kiến thức phổ thông cả toàn chùa đa phần bình bình vậy thôi, chỉ có sư Tấn
Căn là khá nhất, sống nhiều về nội tâm, ít nói nhưng lúc nào nói ra, đưa ý kiến
đều được mọi người ghi nhận!
Lúc này, chùa Huyền
Không bắt đầu thu hút khách vãng lai từ các nơi. Phật tử Nguyên thủy từ Huế, Đà
Nẵng hoặc cả Sài Gòn tìm về thăm chùa và cúng dường tứ sự. Các thầy, các Ni cô
và Phật tử Bắc tông, đôi khi là các gia đình Phật tử họ cũng đến du ngoạn.
Hôm kia, trong một
buổi tối trà đàm, sư Viên Minh, đề cập vấn đề chay mặn. Sư nói khái lược là:
– Đất Huế đô cả hằng
trăm ngôi chùa là Bắc tông, dù theo Thiền, Tịnh hay Mật… họ đều ăn chay cả. Tu
hành, với quan niệm phổ thông là phải “ăn chay niệm Phật” đã trở thành truyền
thống. Phật giáo Nguyên thủy dùng tam tịnh nhục: “không thấy, không nghe, không
nghi” được phổ biến và tồn tại tại các nước Nam truyền như Tích Lan, Thái,
Miến, Campuchia và Lào… cũng đã ăn sâu vào truyền thống! Nhưng tại Việt Nam ta,
Phật giáo Nguyên thủy còn quá mới mẻ, chỉ có mặt ở đây từ năm 1938-1939 tại
chùa Bửu Quang, Thủ Đức do công đức của của chư vị tiền bối như ngài Hộ Tông,
ngài Thiện Luật cùng một vài cư sĩ cốt cán ban đầu. Người miền Nam dễ dãi, tâm
hồn cởi mở, phóng khoáng nên chay mặn không phải là vấn đề nên dùng “tam tịnh
nhục” không tạo phản ứng tình cảm tôn giáo! Đất Huế thì khác. Họ thâm trầm, sâu
sắc, nhưng lại rất phân biệt chay mặn. Họ thường bị đóng đinh trong truyền
thống, không thể rời cái kiến chấp kia được. Đâu phải như người miền Nam dung
dị, thuần phác! Nói vậy không phải chê dân Huế, ăn chay thì tốt nhưng chấp ăn
chay, bảo rằng chỉ có ăn chay mới là tu thì hẳn không được đúng!
Mình về đây là đụng
phải “bức tường quan niệm cũ, truyền thống cũ” ấy vây chặt – nếu không quyền
biến thì không thể phát triển nổi dù giáo pháp chân chính, chơn truyền cách mấy
đi nữa. “Tục vua thua lệ làng” – cái “lệ” ấy nó đã trở thành thói quen huân tập
từ nhiều đời, không dễ gì mà thay đổi được!
Vậy thì bắt đầu từ
nay, chúng ta phải ăn như thế nào để khỏi rơi vào hai cực “chay-mặn”? Tại sao
vậy? Vì ăn mặn là sai mà ăn chay cũng trật!
Tu là phải ăn chay! Có
đúng thế không? Thời Phật, bà-la-môn giáo ăn ngũ cốc, rau trái. Đạo giáo Trung
quốc, nhất là các đạo sĩ luyện khí, luyện đan họ cũng ăn ngũ cốc và rau trái.
Tại sao vậy? Vì khi luyện chú, luyện bùa… thì phải kỵ huyết nhục. Vì ăn uống
huyết nhục thì luyện bùa, luyện chú không “linh nghiệm” chứ không phải vì lòng
từ bi! Đức Phật không bác bỏ ăn chay, không bác bỏ ăn mặn – mà vị tỳ-khưu khi
ôm bát trì bình khất thực ai cúng dường gì đều phải thọ dụng. Ví dụ bà-la-môn
thì họ cúng dường “đồ chay”! Ví dụ sát-đế-lỵ thì cúng dường “đồ mặn” mà đồ mặn
này phải là “không thấy, không nghe, không nghi”. Tuy nhiên, điều ấy cũng không
quan trọng. Đức Phật không để ý đến chuyện ăn. Vì ăn chay hay ăn mặn đều không
thể đưa đến thanh tịnh, giác ngộ, giải thoát. Phải tu tập như thế nào, giới
định tuệ như thế nào mới đưa đến thanh tịnh, đưa đến giác ngộ, giải thoát.
Một số chư Tăng và
Phật tử Nguyên thủy, có quan niệm ngược lại, rằng là Nam tông là phải ăn mặn,
ăn mặn theo chế định “tam tịnh nhục” – vậy là cũng sai luôn!
Ngài Hộ Nhẫn, từ năm
1958 đến nay, ngài đi trì bình khất thực, ai cúng dường gì ngài dùng nấy! Tuy
nhiên, vì là đất Huế nên ai cũng cúng dường đồ chay. Đã là đồ chay rồi nhưng
tất cả vật thực chua ngọt béo bùi, chè cháo gì gì đó, ngài đều trộn lẫn với
nhau hết, không biết là mùi vị gì rồi mới dùng! Người dân đất Huế cung kính,
trọng vọng ngài là vì thế!
Vậy để khỏi rơi vào
cực đoan ăn chay, cực đoan ăn mặn, chúng ta phải ăn như thế nào?
Thế rồi sau đó, chùa
chủ trương ăn uống giản dị, đạm bạc, dễ nuôi, ai cúng gì dùng nấy và nếu có đi
chợ cũng không nên mua cá thịt, dù là cá thịt “tam tịnh nhục”!
Ghi lại những điều nầy
là do tôi suy diễn. Dù suy diễn nhưng tôi biết rõ là không hề đi sai lời chỉ
dạy của ngài Viên Minh.
Vậy là sau đó, bếp
chùa áp dụng có gì dùng nấy. Mà than ôi! Kho nhà chùa có gì đâu chứ! Một ít mộc
nhĩ, bún tàu, măng khô, cá khô, đậu phụng, mè, dấm, dầu ăn, nước mắm, bột ngọt,
tàu vị yểu (xì dầu)… sử dụng một thời gian ngắn là hết rồi. Chùa có làm một sạp
tương, do công sức của thân mẫu sư Tịnh Pháp. Cái này thì dùng hoài nên cũng
mau hết. Hết thì thêm muối vào, đổ nước lạnh thêm – nếu chưa làm được sạp tương
mới. Và thời gian chừng nửa tháng sau thì buổi sáng ăn sắn khoai chấm muối đậu
mè, hoặc cháo trắng với muối ớt; buổi trưa món ăn thường xuyên là dưa môn chua,
tương kho mặn, rau muống, rau khoai, rau dền luộc chấm tương, môn bóp chua, bạc
hà bóp chua… và là canh chua lá giang, canh đắng rau má. Lá giang thì tha hồ cả
rừng nhiều hơn đồi Phước Sơn!
Ăn giản dị, đạm bạc
đúng tinh thần của đức Phật như thế nhưng Phật tử Nguyên thủy các nơi rộ lên
tin đồn, lan vào cả Sài Gòn: “Mấy ông sư Huyền Không theo Đại thừa rồi, họ ăn
chay theo Đại thừa rồi!”
Để kiếm chứng, bà con
Phật tử Nguyên thủy ở Đà Nẵng, cùng nhau đi một chiếc xe lớn, mang đủ loại thức
ăn mặn ngon bổ béo bùi gì đó mang ra cúng dường, xem thử mấy ông sư Huyền Không
có thái độ như thế nào?
Khi họ đến nơi, thoáng
cái là sư Viên Minh biết có chuyện chi – vì có Phật tử Đà Nẵng báo trước –
nhưng ngài chỉ mỉm cười không nói gì. Nhưng sư Trí Thâm thì cất giọng oang
oang:
– Chay chứ! Ăn chay
chứ! Bà con xuống bếp thử mà xem! Toàn đồ chay không!
Vì khi đó cũng đúng cỡ
dùng trưa nên nhà bếp đang chuẩn bị bưng dọn. Họ tò mò lục “cụi”, lục “chạn”,
giở nồi kho, nồi nấu cơm canh đủ cả. Trong “cụi” không có gì cả! Nồi kho là nồi
tương kho mặn chát. Nồi canh là canh lá giang toàn quốc mặn muối, không có cả
bột ngọt. Họ chảy nước mắt. Sau đó sư Viên Minh mới giảng cho họ nghe, tinh
thần đời sống của Huyền Không, kể cả ăn uống, chú trọng dị giản, dễ nuôi… ai
cúng gì dùng nấy chứ không đi chợ mua thịt cá dù đức Phật cho phép tam tịnh
nhục.
Sau khi biết vậy, Phật
tử lại càng thương, càng mến, càng quý kính chư sư Huyền Không; và rồi thịt
khô, cá khô, nước mắm, dầu ăn, bột ngọt, tàu vị yểu, mộc nhỉ, măng khô, bún tàu
và nhiều thứ khác, lại đầy cả một “cụi”!
Vậy, trước năm 1975, vật thực ở đâu cũng dư dả nhưng Huyền Không lại sống đạm bạc như thế đấy!
Chân Dung Và Thơ Của Ông Anh Cả
Như đã nói, tôi về đây
khi khóa học đã mãn nên tự mày mò nghiên cứu là chính. Mà tôi cũng đọc không
nhiều, chỉ loanh quanh xem đi xem lại một số Nikāya, còn kinh điển Đại thừa thì
chán rồi. Thỉnh thoảng, đọc một số sách của hòa thượng Nhất Hạnh do Ôn trình
bày dị giản, dễ hiểu.
Tôi học là học từ đời
sống, cách sống của ngài Viên Minh. Như học cách bảo vệ môi trường khi đi lấy
phong lan. Như đánh chuông nhè nhẹ để anh em còn yên giấc. Như dị giản ăn, ở,
mặc đúng “tam thường bất túc”. Như trong công việc lao động nặng nhọc, sư luôn
là người vác rựa hay cúp cuốc đi trước, mà bao giờ cũng về sau! Như sư không
bao giờ bỏ quên hai thời khóa công phu. Như sư rất ít nói, lại không bao giờ
nói giỡn, nói đùa, nói phù phiếm, mà lời nói ra phải hướng đến chân, thiện, mỹ.
Có hai đức tính nổi trội, chứng tỏ hàm lượng công phu tu tập sâu dày không dễ
gì ai cũng thành tựu được, đó là: Tôi chưa bao giờ thấy sư to tiếng, nổi giận;
một chút biểu hiện tính sân bên ngoài cũng không có! Có thể đâu đó có chút khí
bất bình hiện lên nét mặt nhưng rồi bị chìm tan ngay. Thứ nữa, là chưa bao giờ
thấy sư bần thần, dã dượi, luôn luôn tinh cần, không có tâm sở nào “mê ngủ,
giải đãi, trì trệ” cả! Và dường như lúc nào sư cũng tỉnh táo, cẩn thận, chu
đáo, làm cái gì là chăm chú vào cái đó chứ không xao lãng: Điều ấy chứng tỏ là
sư đã “thiền trong mọi sinh hoạt” từ thuở năm 1974-1975! Nghĩa là sư luôn chánh
niệm, tỉnh giác vậy.
Do một đời sống thiền
như vậy nên thơ sư luôn nhẹ nhàng, trong sáng, thanh thản. Thơ đúng là người.
Trong khoảng thời gian từ năm 1973 khi lập chùa, đến nay, khoảng tháng 2 tháng
3 năm 1975, có lẽ sư đã làm những bài thơ sau đây nhưng ít ai được biết:
Đúng Ngọ
Ta không biết đâu suối nguồn an lạc
Sáng sớm ra vườn bón đậu trồng dưa
Ta không biết đâu bến bờ diệu giác
Đúng ngọ về chùa cất cuốc ăn trưa.
Đêm nghe tiếng suối rì rào
Trăng vàng trải bóng lối vào thiền viên
Bình minh nắng dọi ngoài hiên
Cành phong lan nở nhụy viền sương mai.
Đón Hè sang ta hóa thành hoa nắng
Khi Đông về ta làm hạt mưa rơi
Giữa mùa Xuân ta dệt màn sương trắng
Chợt Thu về ta theo gió rong chơi.
Ra đi khắp bốn phương trời
Tìm ai mỏi gót muôn đời còn xa
Ta về gặp lại tình ta
Dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân.
Giọt mưa nào trên đá
Cho rêu mọc càng xanh
Giọt nào nghiêng bờ lá
Giọt nào thoáng long lanh.
Ngủ quên bên bờ suối
Mặc nước chảy về đâu
Sớm mai nắng qua đầu
Chim kêu choàng tỉnh dậy.
Kìa mây giăng trên núi
A, xuống cho thầy hay
Ơ mà thầy đang ngủ
Thôi cứ để mây bay.
Và có lẽ cũng chỉ mới có mấy bài thơ chữ Hán:
Song tiền đối vãn thiên
Phong vân các tự nhiên
Hạc đề cô thanh hưởng
Tiệm tiệm dạ u uyên.
Sau này tôi có bài dịch Việt:
Ngắm chiều hôm bên cửa
Gió mây trời như nhiên
Cô liêu rơi tiếng hạc
Đêm dần sâu thẳm hơn.
Nhất niên dĩ khứ
Vô thỉ hà tăng
Nhất niên đương lai
Vô chung hà giảm
Sinh tử sự hề
Mạc tư mạc vấn
Kim cổ vị tằng
Hữu cá bất như!
Quá khứ nào thêm
Một năm mới sang
Tương lai đâu bớt
Sống chết vốn dĩ
Chuyện của trần gian
Thôi đừng lo nghĩ
Cũng chớ hỏi han
Xưa nay ai kẻ
Chưa hề liên quan!
… Chỉ trích từ trong
“Tự Truyện” của tôi chút ít vậy thôi. Sau này, khi dạy thiền, dạy đạo, có thể
ngài triển khai bề sâu, bề rộng thêm – còn tinh hoa cốt lõi thì vẫn nhất quán.
Nó nhất quán “tư tưởng”, nhất quán “sống thiền” nhất quán “cái thấy” từ năm
1974 cho đến tận bây giờ, năm 2016 vậy!
Xuân Bính Thân 2016
Minh Đức Triều Tâm Ảnh