Buổi ta về - Cuộc lữ - Đi tìm bóng tôi – Nỗi niềm phố thị - Trước mộ phần sám hối – Về lại thăm nhà – Một đêm trong lòng thác đổ - Vu vơ…Mẹ
Buổi ta
về
Nỗi niềm
phố thị
MỘT ĐÊM
TRONG LÒNG THÁC ĐỔ
"Nhiều
đêm thấy ta là thác đổ,
Tỉnh ra có khi còn nghe".
(Trịnh
Công Sơn).
Năm
ấy, tôi vừa tròn 20 tuổi.
Mưa
vẫn không cản được những bước chân rồ dại xăm xăm nẻo cuối rừng chiều. Đêm vội
vã phủ chiếc lồng bí mật xuống thung lũng như muốn vồ lấy nguyên vẹn những gì ở
đó, không cho thoát ra. Trên đỉnh của cái lồng bàn đêm chất ngất ấy, trớ trêu
thay lại vắt cẩu thả một mảnh trăng the thé, vừa đủ rọi đường cho những tên trộm
vô hình đến ngắm nghía những bảo vật rừng thiêng. Tiếng thác ầm ầm như những tảng
đá to từ trên cao đổ xuống. Tôi ướt sũng. Lạnh. Đông cứng.
Bây
giờ ngồi nghĩ lại, chỉ tưởng tượng một người đang đứng trong lòng thác Bongour
giữa đêm mưa xám xịt cũng đủ thấy rùng mình kinh hãi. Chỉ với cái tuổi hai
mươi, cái tuổi muốn gì làm nấy, cái tuổi khát vọng và đẩy nỗi khát vọng lên đến
đỉnh, muốn thỏa mãn sự hiếu kỳ lẫn quằn quại, mới dám lầm lũi vào chốn thâm u một
mình khi trong người chỉ có duy nhất một cái hộp quẹt, không đủ làm hun khói những
lá cây sũng nước, nói chi đến một ngọn lửa sưởi ấm hồn đơn.
Tôi
chọn một tảng đá to dưới cội trâm già, bên dòng thác lũ, lấy thân mình che mưa
cho đống củi mục, nguyện cầu một ánh lửa bùng lên mà mãi không đỏ được, ngoài
những ụ khói cứ xông thẳng vào mắt cay nồng. Tảng đá to hơn một cái bàn, nhưng
cảm giác trong tôi chỉ là một miếng gỗ bồng bềnh trên ngọn nước. Cây trâm già
nghiễm nhiên trở thành một vị hung thần quái ác, mang đầy đủ trên mình đôi mắt
cú vọ và rắn độc lẫn những nụ hoa lan sặc sỡ sắc màu. Mưa mỗi lúc một nặng hạt,
nhưng không thổi tắt được cái đèn thuyền treo lủng lẳng trên ngọn cây. Nếu
không có ánh trăng, mọi vật hoàn toàn chìm trong bóng tối, như thế có lẽ dễ chịu
hơn. Còn bấy giờ thì mọi vật lại bắt đầu chập chờn chuyển động với những hình
thù kỳ dị. Tôi lạc vào cõi nào chẳng biết. Tự dưng, mọi hình ảnh xung quanh
mình cái gì cũng có hai mặt, vừa thiên thần vừa quỷ sứ, vừa thánh thiện vừa
phàm tục. Và mỗi hình ảnh đi qua tôi đều chứa đầy hai cảm giác trái nghịch, vừa
hạnh phúc vừa đớn đau, vừa quằn quại gan lì vừa tê mê chất ngất.
Vách
đá dựng đứng, xếp đều từng lớp hệt những tháp Chàm ở Thánh địa Mỹ Sơn. Tháp
Chàm di chuyển chập chờn. Từ trong cửa tháp, bóng hai thiếu nữ bước ra, mình
đeo đầy còng cườm lục lạc, nhảy múa những vũ điệu ma quái của giống dân Hời, rồi
họ đi vào, cửa tháp khép lại. Tháp Chàm hóa thành những bức lập thể của
Picasso, tiến tới bóng tôi, mỗi lúc một gần. Tôi dùng hết tâm lực đẩy chúng ra
xa, vách đá ngã sóng xoài trên thảm cỏ, biến mất.
Ánh
trăng lại lóe lên, vàng rực cả lòng thác, đẩy rừng cây ra xa, xa lắm. Cả rừng
cây nhuộm vàng ánh lá, lung linh và đầy huyền hoặc như bức "Mùa thu
vàng" của Lévital. Rồi bóng tối như một mảnh vải, xỏa lần xuống che đậy bức
tranh. Ở góc vàng cuối cùng tôi còn nhìn thấy, một con mèo hoang nhảy ra, cắm
hai ánh nhìn vào lòng đá tảng.
Mưa,
lại mưa.
Ngọn
thác hùng vĩ dựng đứng như một mảnh thiên y mịn màng che vách núi, chốc chốc lại
tung ra từng đợt sóng mù khơi, giăng mùng tứ phía. Tôi mải miết nhìn ngọn thác,
từ đầu đến chân, rồi tự nhiên thấy thác chảy ngược, chảy từ dưới lên trên, chảy
tới đâu khô tới đó, hệt như bàn tay vô hình nào đang cuốn bức lụa trắng ngần từ
chân tới đỉnh. Vén lên tới đầu ngọn, thác im thin thít, không còn một âm thanh
nào của nước, cái im lặng đến rợn mình, đến nỗi nghe rõ được từng giọt rơi tí
tách trên lá, nghe rõ được âm thanh của một loài dế du mục đang gậm nhấm cỏ
non. Bãi cỏ xát xô dựng hình loạn tứ bên bờ suối cạn, gợi nhớ đến bức "Hoa
diên vĩ" của Vangogh. Rồi trên đỉnh cao, bóng Bồ-tát Quán Thế Âm lồng lộng
theo mây đi xuống, màu áo hay màu mây mà mênh mông quá. Bồ-tát tay cầm nhành
dương liễu, tay cầm bình cam lồ, Ngài nhúng nhành dương vào bình nước rồi rảy một
cái, tự dưng thác chảy lại, như tự bao giờ vẫn vậy, như một cổ máy huyền vi có
thể ấn nút tắt mở một cách tự nhiên, thật là kỳ diệu. Tôi thảng thốt, cúi đầu đảnh
lễ với lòng thành kính vô biên. Chợt nghe có cái gì đi ngang qua trên đầu tôi,
vùn vụt như một cánh đại bàng. Ngẩng đầu lên, mọi sự trở lại như cũ.
Ngồi
tĩnh tọa trên phiến đá dưới rừng mưa, tôi hít thở thật sâu để cố tìm trở lại một
ngọn thác Bongour thật sự sau những ảo giác mơ hồ. Nhưng có cái gì là thật sự
đâu! Rừng cây xung quanh như những bóng người đang đứng, kẻ cúi đầu, người chắp
tay, có nhiều người nắm tay nhau nhảy múa, hay cúi mình soi bóng xuống dòng nước
cuồn cuộn nhập nhòa ánh sáng. Phải chăng tất cả mọi sự mọi vật chỉ là sự biến
hiện của tâm thức con người? Phải chăng mọi khái niệm thiện ác, đẹp xấu, hạnh
phúc hay đau khổ đều từ tâm cảm mông lung này? Thế thì tất cả xung quanh tôi
lúc ấy, cái gì là giả, cái gì là thật? Đến những vách đá sừng sững bên ngọn
thác Bongour kỳ vĩ kia cũng giả nốt sao? Chỉ có thằng tôi là thật thôi sao? Ồ
mà tôi cũng chẳng thật, tôi cũng tan ra từng đợt theo khói, theo sương, theo
hơi nước mơ hồ. Vậy ở đây cái gì là chủ thể, cái gì là khách thể? Nếu không có
chủ khách thì thật là vô lý, ai sẽ là người cảm nhận mọi sự vật kia đây?
Mưa
mỗi lúc một lớn, rào rạt trên những cánh rừng. Nước mỗi lúc một mạnh, chảy tuôn
trào từ đỉnh thác xuống từng kẽ đá, dâng cao dần, cao dần. Tôi lạnh cóng, những
tưởng ngồi lại tới sáng ở đây có lẽ tôi sẽ chết cứng vì lạnh. Tôi chợt nghĩ ra
tại đây chỉ có cái lạnh là thật, còn cái gì cũng giả, kể cả tôi. Nhưng cái lạnh
là cái gì? Chẳng qua cũng chỉ là cái nghiệp cảm của mình. Tôi nghĩ vậy. Tôi chợt
muốn lao mình xuống dòng thác lũ kia, cho nó trôi đi đâu thì đi, không phải tôi
muốn chết, muốn tự tử, mà là muốn buông xuôi tất cả. Thế rồi bỗng dưng, tôi chợt
nghe có một con rắn đang gát đầu lên đùi của mình, lạnh tanh. Tôi run rẩy, sợ
hãi. Té ra bây giờ chỉ có cảm giác sợ hãi là thật. Chỉ cần nó cắm đầu vào đùi
tôi là chấm dứt tất cả. Nghĩ đến đó tôi thật sự hoảng hốt khi mường tượng phải
xa lìa hẳn cuộc đời, cha mẹ, thầy bạn, người thân. Cảm giác đau khổ lại là cảm
giác thật. Tôi lẹ làng dùng tay hất đầu con rắn ra xa rồi rùng mình đứng dậy. Về
thôi!
Mưa
vẫn rả rích, những tàn cây le le quất vào mặt túi bụi, đá lại quá trơn, tôi vội
vã nên cứ trượt chân, đá đập vào ống quyển đau không thể tưởng, nhưng vẫn cố
lao nhanh cho ra khỏi lòng thác, hướng về phía hừng đông mà chạy.
Về
đến cô thôn, tiếng chuông khuya trầm ấm tỏa lan, rồi bao nhiêu chuông mỏ từ các
thảo am lần lượt trỗi dậy, nhưng tiếng thác vẫn còn rền trong tâm khảm, từ ấy đến
tận bây giờ.
Vu vơ ... Mẹ
Bỗng dưng! tôi chợt muốn viết về Mẹ.
Vu
vơ? Ừ thì vu vơ, chứ biết viết gì, nói gì? Nếu có gì để viết, để nói, thì thiên
hạ đã nói giùm tôi hết rồi. Còn tôi, mỗi chữ "con thương Mẹ" tôi cũng
chưa một lần nói ra được, nữa là ...
Người
Việt Nam khác với người nước ngoài nhiều lắm! Chỉ một chữ "thương Mẹ",
không bao giờ ta nói ra được. Nó linh thiêng quá! Nó kỳ diệu quá! Linh thiêng
và kỳ diệu đến nỗi giả sử có ai đó nói từ ngữ này trước mặt mẹ thì thành ra giả
tạo, trâng tráo. Trong âm nhạc Việt Nam chỉ có một lần, một lần duy nhất, ở bài
Bông Hồng Cài Áo nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ mới cho mọi người được một lần ấp
úng, một lần ngần ngại : "Mẹ ơi! mẹ ơi! Mẹ có biết hay không? Biết gì? Biết
là ... biết là ... CON THƯƠNG MẸ lắm không?"
Chỉ
có một lần liều lĩnh, như thu hết cả can đảm, và mượn lời nhạc chuyển giao, con
mới thốt lên được lời thầm kín thiêng liêng ấy!
* * *
Con
về lại Di Linh trong mùa mưa ngâu vần vũ. Ngồi bên mộ mẹ, mưa hay sương không
biết, cứ từng đợt giăng hàng qua chiều vàng cổ độ (!). Chiều nay, trên lưng đồi
này, chiều nay. Ngày qua, năm năm, mười năm, một ngày, một giờ, chiều nay. Mẹ vẫn
nằm đó, từ độ con qụy xuống hôn vào lòng đất lạnh, từ độ bỏ thầy bỏ mẹ ra đi,
lang thang khắp chợ cùng quê, vất vưởng trở về bên xác mẹ. Từ bữa nọ tới bữa
nay, từ mỗi phút giây hay từ vô lượng kiếp giữa thiên thu vời vợi? Mẹ nằm cô
liêu trên lưng đồi gió lộng, nhìn xuống mặt hồ biêng biếc giữa hoàng hôn. Phía
Đông là rặng núi xanh, quanh năm mây trắng chít khăn tang buồn trên đỉnh. Chập
chùng đồi núi Di Linh, ngan ngát hương đồng cỏ nội. Con ngồi đây, nén hương ấm
để nói rằng trời lạnh, áo con ấm để nói rằng đời lạnh, lạnh vì mẹ không còn ở
bên con.
Ngôn
ngữ của con đã hóa thành ngọng nghịu. Sao mẹ lại không còn? Mẹ còn đó chứ! Trên
mảnh đất này, giữa bầu trời này, nơi ngọn cỏ, cành hoa, nơi cánh chim trời, vệt
nắng. Bây giờ con thèm hát, bài hát mà con yêu thích nhất: Quán Thế Âm.
"Có bà mẹ đi tìm con, trên đỉnh đồi lan trắng, có bà mẹ đi tìm con, trên động
hoa lan vàng..."
Bên
thung lũng chiều vàng
Cỏ
hoa bừng trỗi hát
Thoát
nhiên tự trần gian
Mẹ
hóa thành Bồ-tát.
Con
tự hỏi nhân duyên gì mà mẹ làm mẹ con? Nhân duyên gì mà con làm con mẹ? Với
con, con nghĩ rằng mẹ đã từng phát một đại nguyện đời đời làm mẹ của con chứ
đâu phải đầu thai vào trả nợ. Không những thế! Mẹ còn là mây trời cho con ngắm,
làm mặt nước cho con soi. Mẹ làm đá sỏi ngân vang giữa bụi đường đìu hiu quạnh
vắng, mẹ làm tiếng thác rì rào giữa rừng khuya cô tịch. Nắng sớm, sương tà,
trăng khuya, gối mộng, đâu đâu con cũng thấy mẹ hiện hữu, như chẳng bao giờ lìa
xa con nửa bước.
Mẹ
hiển hiện trên đường về, trong từng ngõ ngách của cuộc đời đầy đau khổ. Mẹ ban
cho con hình hài ấm lạnh, mẹ ban cho con tình cảm ghét thương. Nhưng con giận mẹ,
con trách mẹ nhiều lắm, bởi mẹ chẳng nói lời nào bằng ngôn ngữ thế nhân. Con
làm sao hiểu được lời mẹ trong đường chiều là rụng? Con làm sao thấy được mẹ
trong gió sớm trời quang? Con chỉ thích thấy mẹ mang tơi đội nón ra ruộng hái
rau má về cho con ăn. Con chỉ thích thấy mẹ ngồi bên bếp lửa hồng à ơi câu cổ
tích. Con đã từng yêu sách mẹ như thế, mẹ đã hứa với con, mẹ hứa mẹ sẽ suốt đời
ở bên con, sao mẹ lại thất hứa?
Giờ
mẹ nằm đó, trên lưng đồi này, chiều nay. Giờ thì con hiểu rằng mẹ thất hứa để
tròn nguyện, nguyện của mẹ lớn quá, nên lời hứa với con trẻ trở thành vô nghĩa
khi tấm hình hài của mẹ về với đất, hương hồn mẹ trở về với trời, và con về lại
với đời, cuộc đời của con, cuộc đời mà mẹ cho con. Phật đã dạy con như thế!
Phật
còn dạy rằng chỉ vì chữ Ái mà mọi chúng sanh phải tự ràng buộc nhau, đau khổ với
nhau. Mẹ nghĩ đi! Có con nào không là con của mẹ, có ai trong cuộc đời này chẳng
đã từng là con của mẹ, tất cả chì vì nhân duyên mà ràng buộc với nhau, đau khổ
với nhau. Rồi bao nhiêu nước mắt, máu xương phải chất chồng để trả vay vì chữ
Ái. Có Ái là có Thủ, có Thủ là có Hữu, có Hữu là có Sanh, có Sanh thì có Tử. Rồi
vòng vô minh cứ mãi xoay tròn, xoay tròn như thế. Khi nào lượng Từ của mẹ không
còn xem con là CON CỦA TA nữa, vô ngã, thì mẹ mới thoát khỏi ái ân
triền miên muôn kiếp. Con tiếc nuối lắm, nhưng con vẫn muốn mẹ dứt hẳn nguồn
yêu suối lệ, hóa thân thành vạn vật trong pháp nghĩa nhiệm mầu mà con đang phảng
phất thấy nơi từng ngọn cỏ, cành hoa. Mẹ có hiểu ý con không?
Con
vẫn thèm nghe điệu hát ru à ơi theo nhịp võng, con vẫn thèm hơi ấm bàn tay mơn
trớn lúc bế bồng, ánh mắt ấy, nụ cười ấy còn hơn ngàn lời kể lể, nhưng con vẫn
ước ao mẹ giũ sạch oan thân để về bên cõi Phật, làm một vị Bồ-tát, làm một Quán
Thế Âm, làm một bà mẹ của tất cả chúng sanh, như đã từng làm mẹ của con. Chắc
lúc ấy, mẹ là người đẹp nhất trên đời (!)
* * *
Hoàng
hôn. Tiếng tù và của mục tử gọi trâu về du dương dưới chân đồi gió lộng, nhắc
tôi trở về với mình trong hiện tại. Đàn trâu dấy bụi đỏ lên quyện với sương chiều
bảng lảng, rồi thong thả đàn trâu lội xuống hồ xanh, đằm mình dưới nước, ngước
đôi mắt long lanh lên nhìn trời mây lá cỏ. Từng vệt sáng tự trời cao nối dài xuống
chân trời xa thẳm, như muốn pha màu cho bức tranh chiều Di Linh thêm phần huyền
ảo.
Chiều
theo gió xuống tự chân mây
Chiều
xuống lưng đồi bên khóm cây
Chiều
leo xuống cỏ, vờn thăm cỏ
Lìa
cỏ, chiều ra bến nước đầy.
Tôi
vẫn còn ngồi bên mộ mẹ, nghe bóng tối chìm dần vào cõi hồn ngát lạnh. Bất giác,
từ vô ngôn mặc ngữ, tôi cất tiếng hát : Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ có biết hay không? Biết
gì? Biết là... biết là... con thương mẹ lắm không?
Một
cánh hạc bay qua, vạch một đường sáng cho bóng đêm dựng hình cô tịch. Tôi xuống
đồi, vất vưởng, không biết rằng hai ống quần ướt đẫm vì cỏ ngậm hơi sương, và
côn trùng đã dạo đầu bản giao hưởng đêm đêm giữa tư bề trống vắng.