TUỆ SỸ: LỤC BÁT, THƠ HOÀI KHANH
Một thời xa xưa, đã qua rồi; tuổi thơ được nuôi lớn bằng lời ru của Mẹ. Những buổi trưa nhiệt đới, mặt trời nóng chảy, hoang vắng như tàn bạo, song đẹp một cách huyền ảo ngây người bởi giọng ru tha thiết theo nhịp tiếng võng đưa, quyện theo âm điệu bất chợt vang vọng xa vời.
Tuổi ấu thơ ấy, những ngày đầu tiên mới mở mắt chào đời ấy, không ai còn nhớ. Lớn lên một chút, tôi biết lắng nghe cô bé hàng xóm ru em, để mường tượng lời Mẹ ru khi mình còn tấm bé. Bé cũng bằng tuổi tôi thôi; còn bé lắm, chưa ẳm nổi em mười mấy tháng. Cô bé đưa võng em, những lời ru liên miên bất tận, không biết từ đâu, mà cô hát lên theo cảm hứng ngẫu nhiên, theo vần điệu tự nhiên. Cô bé không được đi học, không biết chữ. Thơ là hơi thở của Mẹ ru, đã thấm vào da thịt, thấm sâu vào tim. Vần điệu theo lời ru, như con gió qua đồng lúa chín rì rào, không vì sao, không vì ai. Sự sống được nuôi dưỡng, được lớn lên trong những chuyển động hồn nhiên như vậy.
Lời Mẹ ru, khi ta còn quá bé bỏng để nghe và nhớ. Cơ hồ như hoài niệm mông lung về một quá khứ huyền thoại hoang sơ, vừa thoáng qua trong khoảnh khắc mà thôi. Một cái gì đó vô tình, hồn nhiên và tinh khiết, vẽ lên những ảnh tượng mơ hồ, không hình thù, không tên gọi, chập chờn theo nhịp sáu-tám, như à ơi theo tiếng võng đưa. Nó chập chờn trong tôi suốt cả một đời, thăng trầm theo sông nước.
Lớn lên theo năm tháng, như dòng suối trôi qua bến bờ hoang vu, tĩnh lặng, rồi bất chợt đổ xuống ghềnh thác, gào thét và bắn tung bụi nước, qua làng mạc, qua phố thị, ngập tràn khói lửa. Từ đó, trong giấc mơ, nghe lời Mẹ ru rơi trong tiếng khóc nghẹn ngào của chinh phụ. Một thế kỷ đảo điên, điệu lục bát bỗng nghe trong cung bậc lạc loài. Lời thơ thay đổi; điệu thơ thay đổi; một thế kỷ thi ca thay đổi. Nhưng những ai từng lớn lên trong tiếng Mẹ ru, làm sao quên được những câu thơ lục bát? Tôi biết mình không thể làm được một bài thơ lục bát; mà hồn thơ đã bị đẽo gọt qua những khúc quanh phố thị. Phố thị với những khủng hoảng cơ giới. Rồi những đêm, theo dõi bóng trăng mờ, tìm về “cây đa bến cũ, con đò năm xưa”, âm hưởng lục bát của Nguyễn Du chợt đẩy tâm tư vào những bước đường phiêu lưu của lịch sử. Tình cờ, những câu thơ lục bát của Hoài Khanh chợt khuấy động. Nó ngân vang từ phương trời đồng vọng của Nguyễn Du, ngay giữa dòng lịch sử cuồn cuộn sóng, hay bên lề cuộc Lữ tồn sinh. Ấy là âm vang đồng vọng trên những bước chân:
Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
Chuyện đời có có không không
Phù vân một áng bụi hồng xa xa
Cớ sao thiên hạ người ta
Vẫn chưa tròn một Quê-nhà-bao-dung?
Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng?
Trong cơn-trường-mộng-vô-cùng-thời-gian
(Nhớ Nguyễn Du)
Nó hồn nhiên như lời ru của Mẹ, mà lại cay đắng như thân phận Thúy Kiều. Đó là ngữ điệu của nông dân chất phác, không văn hoa hay tráng lệ như các thể điệu cũ, mới, lại mang nặng trong nó trường thiên bi kịch lịch sử.
Lịch sử bồng bột như tấn kịch trên sân khấu ồn ào. Trong những lúc tỉnh cơn tàn mộng, ta cảm thấy mình như nghệ sĩ giữa đám khán giả cuồng nhiệt nhưng bạc tình. Để cho Thúy Kiều “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, giật mình mình lại thương mình xót xa.” Một ánh sao cô độc, mà vẫn chung thủy, chân tình muôn thuở. Song,
Cũng thương cho một cành hoa héo tàn
(Theo Nguyễn Trãi)
Ta yêu người, sao người chối bỏ? Ta yêu đời, sao đời ruồng rẫy? Không đâu. Bóng thời gian đi qua, mấy ai không đầu bạc. Bởi vì con nước trôi xuôi cho nên bến bờ cô độc. Bởi vì thời gian hóa thân thành lịch sử, để cho mặt đất dậy lửa, và khung trời khói ám, người chơi vơi trong cuộc chiến tình-thù. Hãy chờ khi dứt cuộc chiến trong ta, khi mặt trời đổ màu xám xanh lên tử thi trên chiến địa, ta đi nhặt những ngôi sao đã tắt trong con mắt lịm của một thời, yêu và hận, sống và chết:
Vai mang xiềng xích vẫn thương bạo tàn
(Cát và sông)
Ta hận người, vì bóng chiều tàn hoang dại. Ta vẫn yêu người trong hơi thở còn ấm giọng Mẹ ru. Vẫn lầm lì trên phố thị, cho hết buổi thanh xuân. Bỗng chốc, phố thị, điện đường, lâu đài, tất cả biến mất. Trong bóng tối mịt mù của ngày tận diệt, ta ngữa bàn tay, chờ đợi. Bất giác, long lanh một ánh sao rừng, như giọt sương ngưng tụ trong tinh thể tồn sinh. Ngày xưa, ta ngủ say trong lòng Mẹ, chợt thấy trên tóc Mẹ một đóa sao cài. Ngày sau, trong cuộc Lữ đi tìm tính thể tồn sinh trong tính thể hủy diệt, đâu đó mơ hồ một đóa sao cài:
Đã long lanh nỗi lạc loài sương vây
…
Và tôi hột cát xa mờ
Một đêm nào bỗng tình cờ sương tan
(Trong giọt sương tan)
Hai câu thơ đẹp kinh hồn. Làm sao ta có thể tĩnh lặng, âm thầm, lắng đọng, để nhìn thấy giọt sương lấp lánh trên tóc Ai? Giọt sương soi bóng ngôi sao nào đó lẻ loi, heo hút; giữa một trời sương lạnh buốt kinh người. Đấy thôi, tàn cuộc nhân sinh. Một trời sương bãng lãng. Một vì sao cô độc, lấp lánh, và long lanh như khóe mắt vương nỗi sầu thiên cổ, nỗi sầu trường mộng nhân sinh.
Rồi anh bước đi, và tôi cũng bước đi, từ giã nơi này, vô định, như hột cát xa mờ, để mà
Nhỏ dòng máu lệ kiếp trầm luân sâu.
Trong mỗi bài thơ, trong cả tập thơ, tôi nhặt từng hạt sương, mà chợt nghe lạnh buốt âm thầm, bởi đâu đó trong hoài niệm xa xôi, đôi mắt u huyền của một thời, một đoạn đời đã thành thiên cổ. Những hạt sương trong lòng tay chợt thoáng tan; dòng thời gian ngưng động, để đông cứng thành hạt bụi, ray rứt.
Trong ta là núi là rừng
Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi.
Tuệ Sỹ
Tuệ
Sỹ: Thanh Sắc Thi Ca
Cám ơn ông hàng xóm
Ngừng mở máy thu thanh
Võng đưa thềm mận chín
Nghe sẻ gọi bình minh.
(Mộng Ngân Sơn)
Niềm vui đơn
sơ của nhà thơ ở vào con số 12 đường Bến Chợ là như vậy đó. Tiếng sẻ gọi nhau
trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà
của nhà thơ Quách Tấn chúng ta, đây là ngôi chợ Đầm của thành phố Nha Trang với
lối kiến trúc tân tiến. Nhưng trước kia, chỗ này là một đầm sen. Một cái đầm
sen ở ngay giữa thành phố; chúng ta có thể hiểu được tâm sự lạc loài của một
nhà thơ nặng tình ấp ủ thiên nhiên như Quách Tấn. Mặc dù vẫn mang những tính
chất náo nhiệt của một phố thị kiểu mẫu của thế kỷ này. Nha Trang thỉnh thoảng
vẫn trầm mình trong hương sắc diễm lệ của mùa thu. Cho nên nhà thơ của chúng ta
vẫn là bóng dáng một lữ khách mùa thu của một thời đại quá khứ còn sót lại giữa
những bước chân nhộn nhịp của chúng ta, của thanh niên trưởng thành trong thế
kỷ hai mươi:
Áo giũ ngàn sương gió
Lên chùa thăm cố nhân
Non nghiêng thềm bóng xế
Lịu địu bóng nhàn vân.
(Lịu địu, Mộng Ngân Sơn)
Phong cách
ấy quả thực có khác với chúng ta trong những thù tạc vãng lai. Chúng ta đến và
đi trong âm thanh và tốc độ của cơ khí, ồn ào và vội vã. Do bản chất cơ khí,
nghĩa là sự hiện hữu bằng những phản lực bị dồn ép và bị bùng vỡ, mà thời đại
chúng ta mang nặng tính chất chiến đấu, bạo động: những nổi loạn trong triết
lý, trong văn học; những phong trào quần chúng, những nổi loạn của sinh viên
thế giới… Thế thì, thời đại ấy của nhà thơ ấy là thời đại ẩn mình trầm lặng, của
một đám mây lơ lửng lồng trong bóng núi nghiêng nghiêng. Là thời đại của một
Vương Duy tiễn bạn trong chén rượu Vị Thành, của một Giả Đảo lên núi tìm bạn,
hay một Lữ Đường nơi chùa Phổ Lại, một Nguyễn Du trong dãy Hồng Lĩnh?
Đạo dịch
nói: ” Thiên nhiên biến động trong bất động. Nếu lửa là biểu tượng cho sự tiến
hóa không ngừng, thì núi là biểu tượng cho sự an định, tĩnh chỉ. Cuộc lữ không
chỉ duy một mặt là cuộc hành trình vô tận. Nhưng đó là những bước đi trên con
đường Đạo – Chân thường vĩnh cửu. Núi có thể được san bằng để cho phố thị mọc
lên, biển có thể bị lấp cạn để trở thành xa lộ. Dù đến mức như vậy, mối tương
quan bản thể giữa con người và thiên nhiên vẫn tràn đầy trong đồng nhất tính
hồn nhiên. Miếng vỏ sò lạc loài trên núi vẫn mang trong bản chất tồn tại của nó
một nỗi hoài hương tha thiết, nó mơ về những đợt sóng của trùng dương:
Vỏ sò khô ấp ủ
Niềm băng tuyết đêm sương
Muôn xa bờ bến cũ
Vang vọng sóng trùng dương.
(Ấp ủ, MNS)
Nhà thơ của
chúng ta trong một thoáng rung động kỳ diệu nào đó đã đọc ra bản chất tồn tại
sâu xa của tạo vật. Cũng chỉ với tâm hồn ấy mới có thể đọc ra những ẩn ngữ ấy
trong lớp vỏ vô tri và vô nghĩa ấy.
Tất nhiên
nhà thơ vẫn ở trong dòng thác cuộn ào ạc theo bước tiến lịch sử của con người,
nhưng trong cuộc hành trình vô tận ấy nhà thơ có thể đạt được tận cùng về bản
chất lữ thứ của mình, vì trong tận cùng tâm sự vẫn là một nỗi hoài hương bao
la. Quê hương hiện thực của ông ở đâu? Ở trong đất Việt trời Nam này, trong
bóng chùa ẩn giữa mây trắng; trong tiếng chuông khuya sớm, những tiếng sáo
chiều. Đấy là những hình ảnh, những ” thanh” và ” sắc”, mà thiên nhiên vô hình
thực hiện trong cụ thể hữu hình:
Chùa ẩn non mây trắng
Bóng in hàng liễu xanh
Mai chiều chuông đã tạnh
Vòng sóng còn long lanh.
(Tiếng ngân, Giọt Trăng)
Đấy và những
gì tương tự như thế đấy, là hình ảnh thiên nhiên đầy tình tự, là khoảng trời
xanh tinh khiết còn lại trong đôi mắt long lanh của một nhà thơ trong cảnh xế
chiều của chính đời mình, và của cả một thời đại thi ca Việt Nam. Tiếng chuông
chùa Hải Đức trên đồi Trại Thủy kia, sát bên thành phố ấy, sớm và chiều vẫn lạc
loài, lan xa trong cô độc, trong sự sống của thành phố đang trôi đi dưới những
tiếng nổ ròn rã và tốc độ vội vàng của đủ các loại động cơ. Những tiếng chuông
lạc loài, một hồn thơ cô quạnh, và còn gì nữa? Những giọt lệ – những giọt lệ
đoàn viên trong nỗi hoài thương tha thiết:
Từng giọt châu rơi mắt mẹ hiền
Mừng con lưu lạc trở đoàn viên
Neo thu bến tạnh thuyền sương sóng
In bóng chùa xưa trăng nửa hiên.
(Chuông khuya, Đọng bóng chiều)
Vậy thiên
nhiên có nói gì chăng? Thì đấy: bốn mùa đến rồi đi, và rồi lại đến. Nhưng ngôn
ngữ của loài người là gì, trên một cung bậc nào đó?
No comments:
Post a Comment