TRANG TẬP
LÀM THƠ
Vụ Thu Hoạch Thứ Năm
CHÁNH ĐỊNH
1-Hạc Trở Về
Năm sắc mây
lành quyện
Nghìn thu đất sáng ngời
Rừng xanh như mở lối
Hoàng hạc bay về chơi!
2- Hương Sứ
Hoa sứ thơm
đầu ngõ
Bốn mùa gió thoảng hương
Bên thềm trăng sáng tỏ
Soi chiếu một con đường.
3- Cát Trắng
Thân tâm
thường biến đổi
Ngày tháng thoáng qua mau
Phiền não như làn sóng
Để cho cát trắng màu!
B- Song Thất Lục Bát
CHÁNH TRÍ
Tỉnh Thức
Xáo con chữ,
tầm cầu giáo pháp
Níu sử thi, giải đáp tâm kinh
Trăng khuya lặng lẽ vô tình
Ô hay, thực tại, tử sinh chưa rời!
Ôm chấp ngã
bao đời, bao kiếp
Cõng si mê, liên tiếp trầm luân
Tóc sương chớm điểm lục tuần
Nhân duyên chém phứt, nguyện tuân giới nghì
Công danh
đó, kể gì thêm vướng
Tài lộc kia, vui sướng được đâu?
Vô thường nhắc nhở một câu
Giật mình tỉnh thức, đạo mầu chứng tri!
C- Thất Ngôn Bát Cú
GIÁC NIỆM
Cố Nhân
Chung trà
nín lặng đợi hiền huynh
Chén xếp thành hàng vẫn mới tinh
Lớp bụi còn mờ, vương bút đạo
Làn hương đương toả, phủ nghiên tình
Bờ hiên thạch thảo, bông từng khóm
Góc cốc tường lan, đoá mấy bình
Cố hữu, người xưa nay đã khuất
Vườn không, ngõ vắng, cỏ buồn thinh!
CHÁNH ĐỨC
Cố Quận
Trời thu
lộng gió, ngút mười phương
Giăng cánh buồm lên, vượt dặm trường
Bỏ lại trần gian, đời ảo mộng
Tìm về cố quận, chốn thanh lương
Cò bay thẳng cánh, tung sườn núi
Sóc nhảy chuyền cành, vỡ hạt sương
Tự tại rong chơi miền cát bụi
Mây ngàn xưa, tạm gác ven đường!
KHẢI TỈNH
Cởi Hài Tục Luỵ
(Gởi Pháp Sơn)
Vầng trăng
cổ độ, khuất mù sương
Hồn khách tơ giăng giấc mộng trường
Rủ áo phong trần về Cố Quận
Cởi hài tục luỵ ẩn Sơn Phương
Giang hồ khúc nhạc thôi trăn trở
Bí sử ngôn tình chẳng vấn vương
Bến nước bây chừ in bóng nguyệt
Nghìn thâu, vạn thuở tợ đài gương!
ĐỨC HẢI
1- Thương Nhớ Bóng Người
Lau trắng xa
xa, bạc cánh đồng
Cò đơn vội vã, cõng chiều đông
Thương cha, dáng vẫn cày sau luống!
Xót mẹ, vai còn gánh cuối sông!
Ủ rũ đồi hoang, cây đứng đợi
Xa xăm ngõ vắng, mắt chờ trông
Mưa trời bất chợt giăng giăng lạnh
Phương ấy người về có kịp không?
2- Sầu Lữ
Canh tàn sầu
lữ, cười ngu ngơ!
Sinh tử ngược xuôi, sóng dạt bờ
Núi vắng, chung trà, tìm bóng nguyệt
Non cao, hiên đạo, dệt vần thơ
Sương rơi, lá cũ, miền thương nhớ
Gió quyện, hương xưa, cõi đợi chờ
Mưa rớt bên đồi, hoa đẫm lệ
Chợt đâu, nắng điểm, rụng bao giờ!
---------------------------------
Trang Tập Làm Thơ
(Vụ Thu Hoạch Thứ Tư)
A- Thơ Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt
CHÁNH ĐỨC
1-
Bao năm mãi rong chơi
Trôi giạt giữa cuộc đời
Lá vàng, ta chợt thấy
Pháp thực tại không lời.
2-
Mặt hồ, đêm, tĩnh lặng
Nhìn cá lội tung tăng
Sa-môn ngồi ngắm trăng
Chẳng ngờ - y, sương ướt.
KHẢI TỈNH
Tình đời,
thấu giọt sương
Ý đạo, liễu vô thường
Tăng nhân về cố quận
Thả quên mộng bụi hường.
CHÁNH HẠNH
Đông Hàn Tam
Hữu
Chim bay về
núi tĩnh
Thú chạy chốn non không
Đông hàn tri kỷ hội
Tam hữu tình mênh mông!
GIÁC NIỆM
1-
Chiều tàn sau đỉnh núi
Muông thú vội ra về
Tạm biệt chốn nhiêu khê
Ta thở hơi an tịnh.
2-
Mặt trời khuất non lặng
Con trăng hiện trước nhà
Màn sương đêm buông xuống
Ôi! Khóm đá nở hoa!
GIÁC TẤN
1-
Thu đi cây thay lá
Xuân về mai nở hoa
Chớ mơ về viễn xứ
Mỉm cười ngắm mây qua.
2-
An nhiên nhìn sợi khói
Thanh thản với làn mây
Trú tâm vào hiện tại
Cõi về chính là đây!
PHÁP ĐỨC
1-
Sự sống chẳng níu kéo
Sự chết có sá chi
Tuỳ duyên vui chánh niệm
Phủi sạch tham sân si.
2- Am Trăng,
sư đọc sách
Hoà Đường, điệu uống trà
Học làm thơ, hỏi đạo
Lành thay, sống lục hoà.
3-
Nông dân gieo ruộng đồng
Tu sĩ bồi đức hạnh
Y bát đời vô công
Bước đi, hành bát chánh.
4-
Trên trời, sao lấp lánh
Dưới hồ, nước long lanh
Nghĩ suy, mình một bóng
Thao thức suốt ba canh.
B- Thơ Ngũ Ngôn Bát Cú Luật
KHẢI TỈNH
Tụ Bồ Đề
Núi rừng rộn
tiếng ve
Tấu khúc nhạc trưa hè
Đồi Vượn, bầy chim đến
Am Trăng, lũ khỉ về
Làn mây ươm sắc đạo
Sợi khói đượm hương quê
Hạc già ẩn non vắng
Cửa Không tụ Bồ Đề!
CHÁNH HẠNH
Đò Xưa Và Cổ
Nguyệt
Dặm trình
chim rời tổ
Phiêu bạt chốn giang hồ
Cội tùng, thân trụi úa
Khóm trúc, lá tàn khô
Sông sâu mòn sử bút
Núi thẳm hoá trang thơ
Đò xưa chừ vắng khách
Cổ nguyệt khuất sương mờ!
No comments:
Post a Comment