KHI
CÒN Ở CHÙA PHÚ THẠNH
Lối đi cỏ mộng thân dài
Cây cao lá nặng ngủ hoài muôn năm
Sương rêu nến đỏ từ trần
Ván khô tay ẩm tuột dần tương lai
Sớm linh thiêng ít tuổi trời
Áo choàng vai rộng xuống đời tây du
Khi ra biển mặn đêm thù
Tôi đi tôi lại bóng mù thinh không
BẢN
THÂN
Ngồi trông từng giọt mưa rơi
Âm âm tiếng vọng trăm trời cổ xưa
Trong tôi chầm chậm phút giờ
Rơi muôn tiếng vọng ơ hờ nẻo thân.
Đời ôi thể phách hao dần
Hoang mang tín mộ, linh thần vụt bay
Ta rơi nằng nặng từ đây
Trong không bụi cũng trôi đầy mộng mê.
Ngoài kia dơi lưới chiều về
Vây muôn vũng lệ trời tê máu hồng
Lưới mau đáy nặng hoàng hôn
Chân tay mỏi rủ tâm hồn mỏi theo.
Ngồi trông cổ tích bay vèo
Muông đi thú lại rừng treo mối sầu
Rụng dần thôi rụng về đâu
Chơ vơ miếu cổ ôm đầu tượng thưa.
Ngồi trông tóc trắng từng giờ
Chân nhang bụi mọc ta thờ một ta.
NƯỚC
MẶN
Anh hỏi thời gian sáng hoặc chiều
Lòng sương tuyết nhỏ có đìu hiu
Xa nhau nghìn dặm không tường mặt
Như bụi như tro lạnh ít nhiều?
Như thể năm năm rồi đấy nhỉ
Ðời ta thềm mục với sân rêu
Quê người cơm áo đau vô tận
Sống tưởng chừng như chỉ bấy nhiêu
Chốn cũ tâm hồn còn lẩn khuất
Những tình xa lạc mất thương yêu
Ðêm qua mưa đổ cây phong lẻ
Ẩm một lòng lênh láng huyết chiều.
Có phải mùa thu đời đổi sắc
Hay hồn binh bại máu còn reo
Mơ gì bạn cũ mơ ma gọi
Tôn Tẫn còn tin bạn vẫn nghèo.
Áo vàng thôi nhé Tâm là Phật
Một lũ ô y chọn Chúa treo
Nước mất con ơi con chửa biết
Việt Nam con hát líu lo đều
Ðêm đêm ba ngủ ba còn thấy
Tuổi trẻ lầm than vẫn mộng điều
Một sớm buông tay rời hải phận
Nhìn lui Ðất Nước đã tàn xiêu.
Hôm qua lại mộng mơ gì nhỉ
Ngõ xóm làng thôn góc phố yêu
Không phải mảy may rừng với trại
Tiếng hò tiếng hát tiếng ma kêu.
Ở đâu quê quán đâu làng nước
Ðâu bạn đâu em quạ với diều
Ngực mỏng thanh niên già trước tuổi
Mắt vàng tri kỷ những đêm thiêu.
Chung tay làm gối chung tâm sự
Chung mối buồn riêng ít tưởng nhiều
Ly nước san đôi ngoài biển mặn
Ngầm đau cốt hổ hóa hình miêu.
Chúng ta nửa kiếp trong phần mộ
Tưởng sách là kinh, sĩ phải nghèo
Tưởng tướng râu hùm ôi tướng khách
Yêu người thục nữ hóa yêu Kiều.
Anh hỏi làm chi ngày với tháng
Ðầu râu chưa bạc trí đà xiêu
Tâm tư ta gửi bờ sông hận
Còn xác ta trôi tựa cánh bèo
Có phải ta còn, ta đã mất
Mười điều trung tín chín điều điêu
Quê người họ Nguyễn rơi khăn nhỏ
Một bệnh u cư ít tưởng nhiều.
Anh hỏi làm chi anh hỏi lấy
Lòng ta không khác, ý ta neo.
Ðêm qua mưa đổ cây phong lẻ
Ẩm một lòng lênh láng huyết chiều.
Viên Linh (18.12.12): Bằng Hữu
Cuối Trời: Nhà Thơ, Thiền Gia Tuệ Sỹ
Trong hơn một tuần nữa, năm cũ qua
đi, người cũ còn những ai? Mấy ngày nay, trời đất thủ đô Sài Gòn hải ngoại ở
miền Nam California âm u, mưa gió nhè nhẹ, nắng rất vội vàng, khi có khi không,
sự đổi thay nhắc nhở kẻ xa nhà những nỗi niềm quạnh quẽ tự muôn phương, mà
trong lòng hắn, sự quạnh quẽ xem ra hiu hắt vô cùng, ở đó bóng dáng mảnh mai
của người hành giả có chân dung cao khiết của “Tô Ðông Pha, những
phương trời viễn mộng” nổi lên rõ ràng hơn hết thảy.
Tuệ Sỹ ở Vạn Hạnh năm xưa và qua nét
vẽ của Viên Linh.
Chân dung ấy càng nổi lên từ 5 năm
nay, 5 năm Tuệ Sỹ im lặng, 5 năm từ tháng 7, 2007, năm Tuệ Sỹ cho phát hành
cuốn “Huyền Thoại Duy Ma Cật” ở Quận Cam và ở Houston.
Tại sao Duy Ma Cật? Duy Ma Cật là
phiên âm của chữ Phạn Vimalakirti, tên một vị trưởng giả tại thành Vaisali,
thời Phật Thích Ca còn tại thế. Ông tu tại gia, mà theo Hòa Thượng Thích Minh
Châu, thì “trình độ tinh thông Phật pháp, giác ngộ chứng đạo” của
ông sánh kịp các bậc đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền. Một dịch giả đời nhà Tùy
tên là Trí Khải dịch nghĩa là Tịnh Danh, còn Trạm Nhiên đời Ðường dịch Kinh Duy
Ma Cật là Tịnh Danh Huyền Sớ. Có kẻ muốn gọi Tuệ Sỹ là Tịnh Danh Tuệ Sỹ. Nhưng
không đủ kiến thức Phật học để nói về vị hòa thượng đã 5 năm qua im lặng, bài
này chỉ xin nói về thơ của ông mà thôi.
Nói về Thiền sư Tuệ Sỹ, nguyên khoa
trưởng Phật học Viện Ðại Học Vạn Hạnh, đã có nhiều bậc tiền bối nói đầy đủ rồi.
Học giả Ðào Duy Anh nhận xét: “Thầy là viên ngọc quí của Phật giáo và
của Việt Nam.” Hòa Thượng Mãn Giác thì nói: “Tuệ Sỹ đã tu từ
ngàn kiếp trước,…” Hòa Thượng Ðức Nhuận viết về Tuệ Sỹ: “…học
vấn uyên thâm, phẩm tiết sắc son…” Còn về thơ của Tuệ Sỹ, thì nói đến
vô chừng cũng không hết, đó là một nguồn thơ mênh mông, rót xuống tự Trời, chữ
thì bàng bạc thanh khí mà nghĩa thì đằm thắm lưu luyến nhân sinh.
Một trong những bài thơ đầu tiên của
Tuệ Sỹ:
Một con én một đoạn
đường lây lất
Một đêm dài nghe thác đổ trên cao
Ta bước vội qua dòng sông biền biệt
Ðợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao.
Bóng ma gọi tên người mỗi sáng
Từng ngày qua từng tiếng vu vơ
Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng
Trong giấc mơ lá dạt xa bờ.
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa?
Năm tháng vẫn như nụ
cười trong mộng
Người mãi đi như nước chảy xa nguồn
Bờ bến lạ chút tự tình với bóng
Mây lạc loài ơi tóc cũ ngàn năm.
(Tuệ Sỹ, Mùa Mưa Cao Nguyên, Khởi Hành 108, 6.1971)
Thơ tám chữ thời Tiền Chiến thường
là thơ hùng, thể loại đối thoại với ngôn ngữ nói (kịch thơ chẳng hạn), như Thế
Lữ với Nhớ Rừng (Lời con hổ ở vườn Bách Thú: Gậm một khối căm hờn trong cũi
sắt, Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua…) – như Ðinh Hùng với Kỳ Nữ (Ta thượng
có từng buổi sầu ghê gớm, Ở bên Em – ôi biển sắc, rừng hương…), nhưng tới Tuệ
Sỹ, tám chữ trở thành êm đềm, hơn thế nữa, ngay cả với những câu 9 chữ xen vào
8 chữ, Tuệ Sỹ không nói, không dùng văn đối thoại của ngôn ngữ nói, mà là mô
tả, với hình tượng và màu sắc nhẹ nhàng, tạo cho bài thơ một tiết điệu riêng
như bài thơ ở trên, đăng ngay trên bìa báo, trang nhất, của tuần báo Khởi Hành
cách đây gần nửa thế kỷ.
Tới bài thơ sau đây thì Bùi Giáng ca ngợi không tiếc lời là “nhưng có ai ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia… mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ “không đề” của ông đủ khiến ta khiếp vía, mất ăn mất ngủ:
Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn.
Trời núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng.
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.
(Tuệ Sỹ, Khung Trời Hội Cũ hay Không Ðề)
Bùi Giáng viết riêng một bài ca ngợi
bài thơ này, kết luận như sau: “Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết
chân trời mới cũ Ðường thi Trung Hoa với Siêu thực Tây phương.” (Bùi
Giáng, Ði Vào Cõi Thơ).
Trong không khí năm cùng tháng tận
như hôm nay, nhớ tới Tuệ Sỹ, chỉ nên nhắc đến thơ của ông. Ði tu từ năm 7 tuổi,
bị chế độ mới sau 1975 lên án tử hình, Thiền sư Tuệ Sỹ dù im lặng trong Tịnh
Danh, song thơ ông vẫn bàng bạc trong lòng người như hồn tính của một nhà thơ
lớn, dù ở năm châu bốn biển, hay trong một góc nhà u cư với ngọn đèn, ánh nến,
và hương trầm. (VL. 18.12.12)
No comments:
Post a Comment