Saturday, May 29, 2021

Tuệ Sỹ 5: Lục Bát thơ Hoài Khanh - Thơ tứ tuyệt

 Lục Bát, thơ Hoài Khanh
 
Một thời xa xưa, đã qua rồi; tuổi thơ được nuôi lớn bằng lời ru của Mẹ. Những buổi trưa nhiệt đới, mặt trời nóng chảy, hoang vắng như tàn bạo, song đẹp một cách huyền ảo ngây người bởi giọng ru tha thiết theo nhịp tiếng võng đưa, quyện theo âm điệu bất chợt vang vọng xa vời.

Tuổi ấu thơ ấy, những ngày đầu tiên mới mở mắt chào đời ấy, không ai còn nhớ. Lớn lên một chút, tôi biết lắng nghe cô bé hàng xóm ru em, để mường tượng lời Mẹ ru khi mình còn tấm bé. Bé cũng bằng tuổi tôi thôi; còn bé lắm, chưa ẳm nổi em mười mấy tháng. Cô bé đưa võng em, những lời ru liên miên bất tận, không biết từ đâu, mà cô hát lên theo cảm hứng ngẫu nhiên, theo vần điệu tự nhiên. Cô bé không được đi học, không biết chữ. Thơ là hơi thở của Mẹ ru, đã thấm vào da thịt, thấm sâu vào tim. Vần điệu theo lời ru, như con gió qua đồng lúa chín rì rào, không vì sao, không vì ai. Sự sống được nuôi dưỡng, được lớn lên trong những chuyển động hồn nhiên như vậy.

Lời Mẹ ru, khi ta còn quá bé bỏng để nghe và nhớ. Cơ hồ như hoài niệm mông lung về một quá khứ huyền thoại hoang sơ, vừa thoáng qua trong khoảnh khắc mà thôi.  Một cái gì đó vô tình, hồn nhiên và tinh khiết, vẽ lên những ảnh tượng mơ hồ, không hình thù, không tên gọi, chập chờn theo nhịp sáu-tám, như à ơi theo tiếng võng đưa. Nó chập chờn trong tôi suốt cả một đời, thăng trầm theo sông nước.

Lớn lên theo năm tháng, như dòng suối trôi qua bến bờ hoang vu, tĩnh lặng, rồi bất chợt đổ xuống ghềnh thác, gào thét và bắn tung bụi nước, qua làng mạc, qua phố thị, ngập tràn khói lửa. Từ đó, trong giấc mơ, nghe lời Mẹ ru rơi trong tiếng khóc nghẹn ngào của chinh phụ. Một thế kỷ đảo điên, điệu lục bát bỗng nghe trong cung bậc lạc loài. Lời thơ thay đổi; điệu thơ thay đổi; một thế kỷ thi ca thay đổi. Nhưng những ai từng lớn lên trong tiếng Mẹ ru, làm sao quên được những câu thơ lục bát? Tôi biết mình không thể làm được một bài thơ lục bát; mà hồn thơ đã bị đẽo gọt qua những khúc quanh phố thị. Phố thị với những khủng hoảng cơ giới. Rồi những đêm, theo dõi bóng trăng mờ, tìm về “cây đa bến cũ, con đò năm xưa”, âm hưởng lục bát của Nguyễn Du chợt đẩy tâm tư vào những bước đường phiêu lưu của lịch sử. Tình cờ, những câu thơ lục bát của Hoài Khanh chợt khuấy động. Nó ngân vang từ phương trời đồng vọng của Nguyễn Du, ngay giữa dòng lịch sử cuồn cuộn sóng, hay bên lề cuộc Lữ tồn sinh. Ấy là âm vang đồng vọng trên những bước chân:

Ngược xuôi bao kẻ đi về
Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
Chuyện đời có có không không
Phù vân một áng bụi hồng xa xa
Cớ sao thiên hạ người ta
Vẫn chưa tròn một Quê-nhà-bao-dung?
Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng?
Trong cơn-trường-mộng-vô-cùng-thời-gian
(Nhớ Nguyễn Du)

Nó hồn nhiên như lời ru của Mẹ, mà lại cay đắng như thân phận Thúy Kiều. Đó là ngữ điệu của nông dân chất phác, không văn hoa hay tráng lệ như các thể điệu cũ, mới, lại mang nặng trong nó trường thiên bi kịch lịch sử.

Lịch sử bồng bột như tấn kịch trên sân khấu ồn ào. Trong những lúc tỉnh cơn tàn mộng, ta cảm thấy mình như nghệ sĩ giữa đám khán giả cuồng nhiệt nhưng bạc tình. Để cho Thúy Kiều “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, giật mình mình lại thương mình xót xa.” Một ánh sao cô độc, mà vẫn chung thủy, chân tình muôn thuở. Song,

Chắc chi thiên hạ người ta,
Cũng thương cho một cành hoa héo tàn
(Theo Nguyễn Trãi)

Ta yêu người, sao người chối bỏ? Ta yêu đời, sao đời ruồng rẫy? Không đâu. Bóng thời gian đi qua, mấy ai không đầu bạc. Bởi vì con nước trôi xuôi cho nên bến bờ cô độc. Bởi vì thời gian hóa thân thành lịch sử, để cho mặt đất dậy lửa, và khung trời khói ám, người chơi vơi trong cuộc chiến tình-thù. Hãy chờ khi dứt cuộc chiến trong ta, khi mặt trời đổ màu xám xanh lên tử thi trên chiến địa, ta đi nhặt những ngôi sao đã tắt trong con mắt lịm của một thời, yêu và hận, sống và chết:

Một phương đã rực suối nguồn
Vai mang xiềng xích vẫn thương bạo tàn
(Cát và sông)

Ta hận người, vì bóng chiều tàn hoang dại. Ta vẫn yêu người trong hơi thở còn ấm giọng Mẹ ru. Vẫn lầm lì trên phố thị, cho hết buổi thanh xuân. Bỗng chốc, phố thị, điện đường, lâu đài, tất cả biến mất. Trong bóng tối mịt mù của ngày tận diệt, ta ngữa bàn tay, chờ đợi. Bất giác, long lanh một ánh sao rừng, như giọt sương ngưng tụ trong tinh thể tồn sinh. Ngày xưa, ta ngủ say trong lòng Mẹ, chợt thấy trên tóc Mẹ một đóa sao cài. Ngày sau, trong cuộc Lữ đi tìm tính thể tồn sinh trong tính thể hủy diệt, đâu đó mơ hồ một đóa sao cài:

Tóc em nửa đóa sao cài
Đã long lanh nỗi lạc loài sương vây

Và tôi hột cát xa mờ
Một đêm nào bỗng tình cờ sương tan
(Trong giọt sương tan)

Hai câu thơ đẹp kinh hồn. Làm sao ta có thể tĩnh lặng, âm thầm, lắng đọng, để nhìn thấy giọt sương lấp lánh trên tóc Ai? Giọt sương soi bóng ngôi sao nào đó lẻ loi, heo hút; giữa một trời sương lạnh buốt kinh người. Đấy thôi, tàn cuộc nhân sinh. Một trời sương bãng lãng. Một vì sao cô độc, lấp lánh, và long lanh như khóe mắt vương nỗi sầu thiên cổ, nỗi sầu trường mộng nhân sinh.

Rồi anh bước đi, và tôi cũng bước đi, từ giã nơi này, vô định, như hột cát xa mờ, để mà

Ngùi nghe trái đất thì thầm
Nhỏ dòng máu lệ kiếp trầm luân sâu.

Trong mỗi bài thơ, trong cả tập thơ, tôi nhặt từng hạt sương, mà chợt nghe lạnh buốt âm thầm, bởi đâu đó trong hoài niệm xa xôi, đôi mắt u huyền của một thời, một đoạn đời đã thành thiên cổ. Những hạt sương trong lòng tay chợt thoáng tan; dòng thời gian ngưng động, để đông cứng thành hạt bụi, ray rứt.

Còn gì nữa chăng?
Trong ta là núi là rừng
Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi.

Vẫn còn ngân vang mãi đó, lời ru của Mẹ, trong vần thơ sáu-tám.
Tuệ Sỹ

       BÀI THƠ TỨ TUYỆT CỦA TUỆ SỸ 

Nhân ngày sinh của Đức Phật Thích Ca - Phật đản sinh ngày trăng tròn tháng Vesakha/ Vaisakha theo lịch Ấn Độ (ngày 15/4 theo âm lịch), tôi có vài hàng về thầy Tuệ Sỹ- Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ.

 Sơ lược về đại lễ Phật đản Vesak:

Lễ Phật đản là 1 trong 3 ngày lễ lớn của đạo Phật: gồm có lễ Vu Lan, lễ Thành đạo và lễ Phật đản.

Theo quan niệm Phật giáo, lễ Phật đản là ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chào đời tại vườn Lâm Tỳ Ni vào 15/4 âm lịch năm 624 trước Công Nguyên. Phật giáo Nam Tông và Tây Tạng còn gọi đó là ngày Tam Hiệp (kỷ niệm ngày ra đời, ngày thành đạo và ngày nhập Niết bàn của Đức Phật). Mỗi nước tổ chức kỷ niệm ngày Tam Hiệp (Vesak) vào thời gian khác nhau tùy theo quan niệm.

Một số nước như Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản...thì thường tổ chức lễ Phật đản vào 8/4 âm lịch hàng năm. Các nước theo Phật giáo Nam Tông tổ chức vào 15/4 âm lịch hoặc 15/5 dương lịch. Tại Ấn Độ, Bangladesh, Nepal và các nước theo Phật giáo nguyên thủy, lễ Phật đản diễn ra vào ngày trăng tròn của tháng Vaisakha theo lịch Phật giáo và lịch Hindu (tháng 4 hoặc tháng 5).

Đại lễ Phật đản Vesak năm nay, Phật lịch 2565, rơi vào ngày Thứ Tư Wednesday, May 26, 2021, tức vào rằm tháng 4 âm lịch.

 

I. VÀI HÀNG VỀ THẦY TUỆ SỸ

Thầy Tuệ Sỹ là một trong những người bất khuất mà tôi kính trọng nhất trong đời. Xin được ghi ra vài lời về Thầy.

 

1. Thầy Thích Tuệ Sỹ đã từng bị nhà nước CSVN kết án tử hình về tội "Âm mưu lật độ chính quyền": Vào ngày 1- 4-1984, Thượng Tọa Tuệ Sỹ bị nhà cầm quyền Hà Nội bắt giữ cùng giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát, 19 Tăng ni và sĩ quan cũ của VNCH; các ông bị kết án "âm mưu võ trang lật đổ chính quyền". Trong phiên tòa kéo dài nhiều ngày, cuối tháng 9 - 1988 Thầy bị kết án tử hình cùng giáo sư Lê Mạnh Thát.

Những lời tuyên bố của người tù lương tâm Tuệ Sỹ tại Tòa Án, cũng như khí phách kiên cường lúc trong tù là tấm gương sáng chói, niềm tự hào của Phật giáo và của dân tộc: "Lập trường của chúng tôi là lập trường của Phật giáo, là lập trường của toàn khối dân tộc".

Tháng 11 năm 1988, sau một cuộc vận động giảm án, bản án được giảm xuống còn tù chung thân. Ngày 1 tháng 9 năm 1998, ông được thả tự do từ trại Ba Sao - Nam Hà ở miền Bắc Việt Nam. Trước khi thả, nhà cầm quyền CS yêu cầu ông ký vào lá đơn xin khoan hồng để gửi lên Chủ tịch nước Trần Đức Lương. Ông trả lời: “Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi!”. Công an nói không viết đơn thì không thả, Thầy không viết và tuyệt thực. Chính quyền Cộng sản đã phải phóng thích ông sau 10 ngày tuyệt thực .[1]

 

2. Lời phát biểu gần đây của Thầy Tuệ Sỹ

"Đúng là ở trong đất nước nào thì phải tôn trọng luật pháp đó, nhưng nếu tự mình đặt ra luật pháp để dùng luật pháp đó xâm phạm tới giá trị, xâm phạm lý tuởng của người khác thì tôi không chấp nhận luật pháp đó, tôi sẵn sàng chịu chết. Tôi đã từng đứng trước bản án tử hình rồi, tôi không sợ, tôi chấp nhận nó. Đây không phải tôi thách thức, mà là vấn đề lý tưởng của mình…

NAM MÔ ĐẠI CƯỜNG TINH TẤN DŨNG MÃNH PHẬT" -

- Tụê Sỹ - (Trích bài "Định hướng tương lai với thế hệ Tăng sỹ trẻ" của Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, nói với Tăng Sinh Thừa Thiên Huế)[2]

 

II. PHẠM CÔNG THIỆN VIẾT VỀ THƠ TUỆ SỸ

Trước khi vào trích đoạn bài viết của thi, triết gia Phạm Công Thiện, tôi xin dẫn ra đây lời của Phan Đạo - người bạn danh tiếng trên FB- mà cá nhân tôi cho là chính xác: " Tôi dám nói, ngay cả đại sư Thái Hư, nhà sư cải cách Phật giáo triều nhà Thanh, với bộ sách Thái Hư Bồ Tát tạng, 60 cuốn cũng không so được với thầy Tuệ Sỹ. Nếu thắc mắc phát ngôn của tôi, thì cứ tìm đọc"

Giờ mời các bạn đọc trích đoạn bài viết của Phạm Công Thiện:

[ ... Tuệ Sỹ bị CS nhốt tù từ năm 1979 cho đến năm 1981, và sau cùng từ năm 1984 cho đến năm nay, mười năm liên tục, Tuệ Sỹ vẫn bị CS nhốt tù và bị xử tử hình, rồi giảm xuống chung thân hay hai chục năm cấm cố. Lần cuối cùng tôi gặp Tuệ Sỹ thì Tuệ Sỹ mới 26 tuổi. Chiều nay, tôi giựt mình chợt nhớ rằng năm nay Tuệ Sỹ đã 50 tuổi rồi. Thế thì không còn là chú tiểu Tuệ Sỹ mà là một đại thượng tọa Thích Tuệ Sỹ! Dù trong cảnh tù ngục đói khổ trăm điều, thiền sư thiên tài Tuệ Sỹ vẫn bất khuất và hùng khí vẫn ngùn ngụt cao ngất như đỉnh Trường Sơn mà nhà thơ Tuệ Sỹ vẫn trọn đời ngưỡng vọng, yêu thương trên những con đường oanh liệt, khai mở cho Sử Tính quê hương được vượt thoát ra ngoài chế độ CS, cái chế độ hoang phế, tàn tạ mà Tuệ Sỹ gọi là "tha ma mộ địa". Chúng ta hãy lắng nghe bài thơ "Ngục Tối" của Tuệ Sỹ:

Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế
Một kiếp người ray rứt bụi tro bay
Tôi ngồi mãi giữa tha ma mộ địa
Lạnh trăng tà lụa trắng trải rừng cây
Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỉ
Quì run run hôn mãi lóng xương gầy
Khóc năn nỉ sao hình hài chưa rã
Để hồn ta theo đốm lửa ma trơi.

Bốn câu thơ cuối đã nói hết tất ca thế giới điêu tàn của CS hiện nay:

Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỉ
Quì run run hôn mãi lóng xương gầy
Khóc năn nỉ sao hình hài chưa rã
Để hồn tan theo đốm lửa ma trơi

Hai câu thơ cuối cùng của bài "Ngục Tối" nói lên ý chí hực lưa đốt cháy tất cả gỗ mục của tâm thức hạ liệt:

Khi tâm tư vẫn chưa là gỗ mục
Lòng đất đen còn giọt máu xanh ngời

Bài "Trầm Mặc" đưa chúng ta đi vào sự trầm mặc ung dung, không hẳn bi quan và không hẳn lạc quan, coi cuộc đời "như quáng nắng, như giấc mộng, như thành phố giữa sa mạc: tất cả sự hiện khởi, tồn tục và biến mất đều như vậy" (như câu kệ của Long Thọ mà Tuệ Sỹ đã trích dịch trong quyển Triết Học Về Tánh Không của mình:

Anh ôm chồng sách cũ
Trầm mặc những đêm dài
Xót xa đời khách lữ
Mệnh yểu thế mà hay
(Trầm Mặc)

Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo sĩ thi nhân với pháp khí phi thường là Trí Huệ Bát Nhã cùng với lòng Đại Bi Thơ Mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của Ý thức chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng dẫn đường soi sáng Thế Mệnh của Sử tính quê hương.

California, ngày 20 tháng 6, 1994.

Phạm Công Thiện ...][3]

 

III. BÀI THƠ TỨ TUYỆT CỦA THẦY TUỆ SỸ

Sau đây là bài thơ tứ tuyệt chữ Hán "ấn tượng" của Thầy Tuệ Sỹ làm khi còn trong tù: "Cúng Dường"

"Cúng Dường" là bài thơ được Thầy Tuệ Sỹ làm trong những năm tháng giữa ngục tù CS . Bài thơ vỏn vẹn chỉ 4 câu, mang sự nhẫn nhịn chịu đựng và tâm từ bi rộng lớn nhìn thế gian đầy những tranh chấp trong hận thù, máu lệ.

1. Nguyên văn - phiên âm bài thơ

 Cúng dường

Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn

Tuệ Sỹ

Bản dịch:

Đây bát cơm tù con kính dâng
Cúng dường Đức Phật đấng Tôn Thân
Thế gian chìm đắm trong máu lửa
Lệ nhỏ không lời, lòng xót thương.

(Tuệ Sỹ Đạo Sư trang 91- Thích Nguyên Siêu dịch)

2. Phỏng dịch của nhà thơ Vân Nguyên:

Dâng chén cơm tù lên
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian tràn oán hận
Ôm chén lòng khóc thầm

3. Phỏng dịch của Nguyên Lạc:

Cúng dường

Cơm tù hẩm kính Thế Tôn
Lòng thành đảnh lễ cúng dường Tôn sư
Thế gian không dứt hận thù
Ôm bình bát lệ xuân thu không lời

***

Mong thầy Tuệ Sỹ sức khỏe và an lạc nhân ngày Phật Đản.

Nguyên Lạc

….................

Nguồn:

[1] Vài Nét Về Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ - Viên Linh

http://www.gdpt.net/tailieu/tuesy/tuesy.htm

[2] Duyên Giác Ngộ

https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=848810485322783&id=461201424083693

[3]: Trang FB thơ Tuệ Sỹ

https://www.facebook.com/Thotuesi

No comments:

Post a Comment

MDTTA 17

  Pháp đệ 68 xuân thu Hôm nay Kỷ niệm Pháp đệ 68 xuân thu, Đã đi qua 2/3 đời người Như lão ngựa vượt dặm trường gian khó Qua cõi người s...