Thu 1
Mưa,
mưa lên cho rũ hết ưu phiền - Hồn tôi đó rã rời như gỗ mục.
Hồn
tôi đó - lòng cỏ may phất phới – Dật dờ trên sóng nước, đắm trong sương. Có tiếng guốc nào nhẹ gõ trong hồn, có cánh chim nào bay
trong bụi khói hoàng hôn. Có hình bóng nào ở lại, và có cuộc tình nào đã lặng
lẽ chia xa? Tiếng thơ của anh êm êm như khúc nhạc hồng, rơi rơi như dòng dư lệ: Niềm nhớ nhung nào đã bũa rộng, về đến, nơi
nào đã ghi lại dấu vết kỷ niệm xa xưa và sự khắc khỏai hiện hữu. Trời đất mang mang sông bể vơi đầy. Thôi nhé em góp chi từng sợi nắng. Có còn chăng, bèo bọt với mây mờ – Và ấp ủ
bóng người trong lặng lẻ. Thật ra đó
là tiếng thơ từ sóng biển dâng, của bờ cát vàng, của rêu cỏ, hoang mộ hay chỉ
là tiếng thở dài của thời gian, của những tiếc nuối sầu muộn vô tận, chất chứa
trong nội tâm anh? Thơ là nguồn chở người, chở cái đạo tình trên dòng nước vơi
đầy, vĩnh cữu. Hình ảnh đó lồng lộng
giữa thiên thu.
nhà
thơ lại đem đến cho chúng ta một sinh khí thơ huyền nhiệm giữa mộng và thực
trộn lẫn trong u hòai, nhớ nhung. Cánh
vạc nào bay trong triền nắng sớm – Tiếng hót xa xăm như tận cõi trời
Sao u trầm chất ngất khách thiền ơi – Xin nhẹ bước trên lối mòn tỉnh lặng Rừng cô tịch có gì đâu tra vấn – Lửa chân như
có đủ ấm linh hồn. Chim thức giấc cất
lời ru thật lạ - Ai phong trần qua mấy độ truân chuyên. Người đâu rồi sao tịch mịch hư không – Hương
dạ thảo đang chớm mùa khai mở. Ô! kìa ai
bên suối chôn ảo tượng – Mắt dã hoang vu bụi lốc huyễn hờ Vũ trụ chết, tầng âm thanh lắng đọng – Tay ơ
hờ vuốt gió hát vu vơ. Tay huyền niệm ý
lạc lòai vô thức – Em, em về chưa sao vân ảnh mịt mùng. , không có tiếng than mà sao đầy u uất
như một góc phương trời nào chuyển gió. cho
nỗi sầu như rặng núi xanh biếc kia cứ hoài hoài mù mù dáng khói. Người lưu lạc,
không còn lưa chọn, đành có một độc đạo để đi, dù là con đường Sạn Đạo gập
ghềnh hiểm ác, những dông bão hiện thành từ nỗi quặn đau thiên cổ…
chính
là thông điệp gửi trao, của những đêm thức trắng ngậm ngùi, của những ngày lũi
lầm trong cảnh bụi trần cát lấm của cuộc nhân sinh vóc dáng của một chân dung
vĩnh hằng? Đời thường, còn có những mốc cắm xác định thời gian. Chứ trong cái
hư ảo của cõi hư vô, làm sao phân biệt được giữa sát na giây phút với miên viễn
tận cùng. Trong hành trình mù mịt thiên lý cõi xa, vó ngựa cuồng như ngôn ngữ
lẩn khuất vào vần điệu. Có ai đánh thức. Một giấc mơ…“.. Tôi bước vào sân
trong. Trời xanh lồng lộng. Những phiến đá vuông nhỏ vẫn dội vang tiếng ngàn
xưa dưới chân du khách.
Hãy
cho tôi vay muôn ngôn và từ để nói lên một xúc động chưa từng kinh qua. Cho tôi
giải tỏa niềm ngậm ngùi reo vui này. Như một mảng khí áp, một khối tích tụ chăn
ngang lồng ngực vừa trải qua cơn địa chấn…” Tôi đọc trang thơ, không trầm hương
mà sao quyện lẫn trong không khí những mùi thơm cổ kính từ thiên cổ tạt về…
Lá cứ xoáy tròn trong mắt biếc lang thang
Xạc xào hát trên một vùng thương nhớ Nốt nhạc nào rạn vỡ Rớt vào tim âm
thầm. Chiều đông cũ về nghiêng nghiêng
góc phố Cây đơn lẻ dấu mình vào bỡ ngỡ. Con
đường chiều lá đổ Gió vô tình ngang qua Ta cùng em xuống phố
Nghe xạc xào bài ca Nắng vàng rồi cũng nhạt Mùa thu rồi sẽ xa. Cuối chiều đứng đợi bạt ngàn
mưa bay. Hoa nở trước khi lộc nõn đâm đầy
cành. Ngoài cổng xưởng may có một hàng phong du xinh xắn. Chiếc lá phong xòe
như bàn tay thiếu nữ, có đủ sắc màu nhưng tôi yêu nhất khi lá có màu đỏ rực. Lá
phong đỏ như mối tình đượm lửa/ Hoa cúc vàng như nỗi nhớ dây dưa. Tôi biết
đó là thơ của Tế Hanh. Những câu thơ hay và rung động lòng tôi như thế đều do
mẹ đọc cho tôi chép vào sổ tay, khi tôi là một cô học sinh giỏi văn nhất
trường. Mỗi khi đi dưới hàng phong du, tôi cố tình đi thật chậm, nhón chân trên
thảm lá và chờ đợi một bàn tay đỏ xinh chao nghiêng xuống vai.
Cửa sổ xưởng tượng nhìn ra mảnh sân, tiếp đó là khu vườn.
Thảm cỏ phía sau hàng rào gỗ gượng ngả một màu xanh ốm yếu, găm chặt trong đó
nỗi chết chóc và lụi tàn; còn cây cối với những lá vàng còn sót lại, cành thâm
đen vì ẩm, lại bị sương mù bao phủ, thì dường như đang thực sự sống dở, chết
dở.
Những tàu lá chuối sương đọng thành từng giọt tụ dốc ngoằn ngoèo rơi rụng
ngay đầu mũi lẫn hai bên mép lá. Tiếng gió nhẹ vỗ về lên tàu cau nghe âm hưởng
cô tịch phủ kín thời gian... Hướng mùa thu đang bàn
giao gió mưa cho mùa đông mai này kéo dài lê thê những màn sương giá buốt. Chiếc đồng hồ quả lắc bên nhà láng
giềng hờ hững thả xuống giữa bốn bề tĩnh lặng.
Mùa đông chưa về, đất trời đang độ thu già, mới sắp tàn thu, lá còn tươi
màu lục diệp, cỏ mướt êm màu ngọc biếc. Không
gian tắt nắng nhường cho đôi cánh lớn phả ánh sáng trắng dịu nom mượt tơ trăng
khắp bầu trời. Ai đem khăn liệm phủ
chiều?
Cho bông phượng đỏ rụng nhiều cánh thơm
Hình như trời thắm buồn hơn
Đất tương tư một làn hương yêu kiều.
Khi bé tới mùa thu
vừa nở
Những cành run nhánh lạnh lá mừng
Hoa sầu riêng cúi xuống sầu chung
Âu yếm quá mắt ai dài dại.
Anh muốn bé từ nay mãi mãi
Như chim kia hót mãi không ngừng
Như đồi kia khoác mãi màu xanh
Và mãi mãi vẫn còn mười bảy.
Mười bảy tuổi mắt tròn hau háu
Dẫu mắt nhìn có chút xa xăm
Dẫu nhìn nghiêng một triệu đường cong
Vẫn thấy được lòng anh: đường thẳng.
Lá theo gió bay
nghiêng chạm rơi dọc chân thành rêu mốc. Lá câm nín bay. Đại Nội rét run theo từng cơn gió luồn qua
các tàn cây. Lá me bay, lá phượng rụng bám lên tóc lên vai kẻ chờ đợi Thời gian
theo lá rụng qua mau. Cây lá trong vườn
xao động nhẹ nhàng ngẩn ngơ ngó theo Thoan, Thoan chạy qua vườn, như bay trong
mựa đầu trần, chân trần và lòng hoang mang muốn khóc. Thoan bước nhanh quên lá
úa ngậm ngùi dưới gót, quên mưa quyến luyến trên vai. tiếng nói thì thầm chợt mang âm hưởng bí nhiệm
nào thật xa vắng, như từ ngàn khơi vọng lại. Âm hưởng tan trong mưa và kết
thành niềm im lặng lóng lánh trong mắt Thoan, niềm hoan hỉ tuyệt vời trên môi
Quân.
Hà Nội
trưa ấy vẫn thỉnh thoảng ran lên mệt mỏi một tiếng ve dài. Nhưng phố đã chơm chớm
những ngón chân thu nắng.
Em như chiếc lá thu vàng rụng như trút hay
em là cơn gió để làm cho những chiếc lá vàng rơi?
Tôi
như sống lại với những hơi gió vuốt ve của mùa Thu, của những lành lạnh buổi
sáng vừa đủ để khoác một chiếc áo ấm nhẹ lên người. Khi bé tới mùa thu vừa nở Những cành run
nhánh lạnh lá mừng Hoa sầu riêng cúi xuống sầu chung Âu yếm quá mắt ai dài dại.
Mùa
thu qua thi-ca Việt - Nam
Dương
Viết Điền
Ai đã từng đọc bài thơ nỗi tiếng "Chansons D'automne" của thi- sĩ
lừng danh Pháp-quốc Paul Verlaine đều cảm thấy lòng mình bồi-hồi và xúc-động.
Không xúc-động sao đựơc khi nhà thơ đa-tình này đã rung cảm hồn mình thành
những dòng thơ bất-hủ sau đây để nức-nở về tình thu bên bờ sông Seine tuyệt
đẹp năm nào:
" Tiếng đàn ai đó lê-thê
Vĩ- cầm réo-rắt ê-chề lòng đau
Bơ-vơ chuông đổ đồng-hồ
Lòng như héo-hắt thu tàn năm xưa
Bao kỷ-niệm, theo gió đưa
Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót-xa
Bao năm lữ thứ xa nhà
Giang-hồ phiêu-bạt lá vàng tả-tơi.. "
(Lãng-Du )
Thật vậy, mùa thu là mùa của tình yêu, mùa của lá vàng rơi rụng. Mùa thu là
mùa của những cặp tình nhân dìu nhau đi dưới nắng thu để thưởng thức bầu
không khí mát mẻ trong lành, rồi trao cho nhau những nụ hôn nồng cháy để rồi
cùng nhau nhìn lá vàng rơi, rơi mãi tận cuối chân trời.
Mùa thu là mùa các thi-nhân đi tìm những vần thơ để sáng-tác thành những
tuyệt-phẩm bất-hủ nghìn năm.
Ai đã từng đi qua phố vắng dưới ánh nắng chiều thu khi lá vàng bay bay khắp
trời rồi lác-đác rơi qua mái đầu và rớt xuống đất, mới cảm thấy được cái đẹp
tuyệt vời của mùa thu, mới rung cảm theo nhịp của lá vàng đang rơi, rung cảm
theo những tia nắng thu dịu hiền vươn mãi đến tận chân trời xa thăm-thẳm. Nói
đến mùa thu là nói đến mùa của lá vàng baybay, mùa của lá vàng rơi rơi, mùa
của lá vàng khô rụng khắp mọi nẽo đường. "Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi
cho đám cưới về ". Ta hãy nghe các thi-nhân Việt-nam nói về lá vàng rơi
mỗi độ thu về qua những dòng thơ trữ tình sau đây.
Hình ảnh nỗi bật nhất về lá rụng giữa mùa thu là hình ảnh trong hai câu thơ
sau đây của thi-sĩ Tản- Ðà :
" Trận gió thu-phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm lá bay sang "
Nhưng hình ảnh trữ tình và lãng-mạng nhất là hình ảnh con nai vàng ngơ-ngác
giưã rừng thu qua bài " Tiếng Thu " của Lưu Trọng Lư với những câu
thơ năm chữ nghe thật êm-đềm như khúc nhạc tình thu trong rừng vắng :
" Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào-xạc
Con nai vàng ngơ-ngác
Ðạp trên lá vàng khô "
Không phải chỉ có Tản Ðà hay Lưu Trọng Lư mơí nói đến lá vàng khi mùa thu
tới; hầu hết các thi- nhân Việt-nam đều ca ngợi cái đẹp của mùa thu bằng cách
diễn tả hình ảnh của lá vàng rơi giữa trời thu. Sau đây là những dòng thơ
diễn tả về lá vàng mùa thu của một số thi- nhân Việt-nam :
" Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh-lùng "
(Huy-Cận)
" Rặng liễu đìu-hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Ðây mùa thu tới mùa thu tới
Với aó mơ phai dệt lá vàng "
(Xuân-Diệu )
" Ao thu lạnh-lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo-teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo "
(Nguyễn Khuyến)
" Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng "
(Chế lan Viên)
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man-mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Thái Can)
" Gió vàng hiu-hắt cảnh tiêu-sơ
Lẻ-tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa "
(Ngô chi Lan)
" Ðêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương "
(Nguyên-Du)
|
Ngoài
lá vàng rơi là biểu-tượng của mùa thu, ta còn phải đề cập đến ánh trăng thu
huyền-ảo.Nói đến mùa thu mà không đề-cập đến ánh trăng thu mờ-ảo sau áng mây
trời giữa đêm khuya thanh-vắng làmột sự thiếu sót lớn lao đối với mùa thu.
Không phải đêm thu nào ánh trăng cũng vằng-vặc giữa trời trong khi lá vàng
rơi nhè nhẹ giữa đêm khuya cô-tịch mà trái lại, có những đêm thu trăng buồn
ảo-nảo gió heo may thổi về làm cho lòng người cảm thấy u-buồn man-mác trước
cái lạnh không làm tê-buốt con tim như mùa đông, nhưng lắm lúc làm cho hồn ta
bâng-khuâng giá rét, làm cho hồn ta nhung- nhớ lạnh-lùng.
Nếu thi-sĩ Thượng Quan- Nghi đời Ðường bên Trung-Quốc đã diễn-tả cái đẹp của
ánh trăng thu qua hai câu thơ:
" Thước phi sơn nguyệt thự
Thuyền táo đã phong thu "
" Sườn non trăng sáng chim bay
Ðồng thu gió lộng, ve say nhạc sầu "
(Chi-Ðiền dịch)
Thì tại Việt-Nam, rất nhiều nhà thơ đã tốn không biết bao nhiêu mực và giấy
để diễn-tả chị Hằng giữa đêm thu huyền-diệu. Thật vậy nếu bài " Tiếng
thu " của Lưu trọng Lư không đề cập đến ánh trăng mờ thì tòan bài thơ
mất đi rất nhiều ý-nghĩa về mùa thu :
" Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn-thức "
Riêng nhà thơ Xuân-Diệu đã nhân-cách hóa ánh trăng thu khiến những dòng thơ
trở thành bất tử:
" Thỉnh-thỏang nàng trăng tự ngẩn-ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Ðã nghe rét mướt luồn trong gió
Ðã vắng người sang những chuyến đò "
Tuy-nhiên nói đến trăng nhất là ánh trăng thu mà không nói đến thi-sĩ Hàn Mặc
Tử là một sự thiếu sót vô cùng trọng đại.
Ta hãy nghe Hàn Măïc Tử nói về trăng thu qua những câu thơ bảy chữ với lối
nhân-cách hóa làm cho ta có cảm tưởng như người đẹp Hằng -Nga đang rón-rén
dời gót ngọc vào nhà ai giữa đêm thu trăng sáng :
" Bóng nguyệt leo song sờ-sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn "
hay là :
" Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe "
Ngoài Lưu trọng Lư, Hàn mặc Tử, Xuân-Diệu ra , ta cũng thấy rất nhiều nhà thơ
nói về ánh trăng thu. Sau đây là một số bài thơ của một vài thi-nhân đãu
ca-tụng ánh trăng thu qua những dòng thơ đủ các thể loại:
" Lòng anh giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh
Lòng em như bụi kinh-thành
Ða-đoan vó ngựa chung-tình bánh xe . "
(Nguyễn-Bính)
" Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào "
(Nguyễn -Khuyến)
" Ðêm thu buồn lắm chị Hằng ơi !
Trần thế em nay chán nữa rồi "
( Tản-Ðà)
" Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô
Lạnh-lùng thay, bấy chiều thu,
Gió may hiu-hắt trên đầu tường vôi "
Ðặng trần Côn (Ðoàn thị Ðiểm địch)
" Vi lô san-sát heo may
Một trời thu để riêng ai một người
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc chen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần -hôn !"
( Nguyễn-Du )
"Ðêm thu gió lọt sông đào
Nửa vành trăng khuyết ,ba sao giữa trời "
( Nguyễn- Du)
" Hoa xuân nọ ,còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia,chưa hé hàn-quang "
( Ôn như Hầu )
Nếu mùa thu có lá vàng rơi rụng, có trăng thu huyền ảo thì cũng có nắng thu
nhẹ lướt trên đồi. Nắng mùa thu không gay-gắt rực lửa như mùa hạtrái lại rất
mát diụ trong lành, nhất là những lúc trời xanh mây trắng nắng hồng. Ði dưới
nắng thu người ta thấy tâm-hồn rất thoải mái lâng-lâng, nhất là những lúc
trời chiều nhạt nắng có lá vàng bay bay rồi rụng khắp phố -phường. Nhiều cặp
tình nhân thích đi dưới nắng thu để thưởng thức cái vẻ đẹp của mùa thu, nhặt
những lá vàng rơi rồi nhìn những hàng cây khẳng-khiu chỉ còn những cành trụi
lá dọc hai bên đại-lộ lúc chiều tà.
Ai cũng biết rằng các thi- nhân khi nói về mùa thu thường không quên đề-cập
đến nắng thu. Nhà thơ Chế lan Viên đã làm cho ta ngạc-nhiên khi viết mấy câu
thơ liên-quan đến nắng thu như sau:
"Chao ôi! thu đã tới rồi sao?
Thu trước vừa qua mới độ nào
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao"
Nhưng ngạc-nhiên hơn nữa là hai câu thơ đầy nhạc tính của nhà thơ Bích-Khê
sau đây làm cho ta cảm thấy thích thú khi đọc lên vì nghe như một giai-điệu
tuyệt vời:
" Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh-mông"
Dĩ-nhiên, mỗi nhà thơ diễn-tả vẻ nắng thu một cách khác nhau, nhưng hầu hết
đều ca-ngợi nắng thu như là hình ảnh tuyệt đẹp giữa gió chiều.
Nhà thơ Xuân-Diệu cũng nói về nắng thu với hai câu thơ thất-ngôn đầy lưu
luyến trữ-tình
"Nõn-nà sương ngọc quanh thềm dâu .
Nắng nhỏ bâng-khuâng chiều lỡ thi. "
Nhưng nếu ai đã đọc mấy câu thơ sau đây của nhà thơ Trúc-Ly đều cảm thấy hồn
mình xao-xuyến bâng-khuâng:
"Tôi đứng bên nầy bờ dĩ-vãng
Thương về con nước ngại-ngùng xuôi
Những người con gái bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa thu tha-thiết nắng hoe thềm. "
Ngòai ra ta còn thấy rất nhiều nhà thơ khác cũng đã nói về nắng thu với những
dòng thơ thật đẹp và thật buồn:
"Chiều nay nắng nhạt luyến chân đồi
Hơi lạnh tàn thu giục lá rơi
Sương xuống chiều đi lòng vắng vẻ
Thê-lương thêm bận khúc ly-hòai"
hay là :
" Hát bài hát ngô-nghê và êm ái
Bên sườn non mục-tử cưỡi trâu về
Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê
Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái . "
Nam-Trân Nguyễn học Sỹ
Nếu những hình ảnh đẹp của mùa thu là lá vàng rơi, là ánh trăng thu giữa đêm
khuya thanh-vắng, và nắng chiều thu trong buổi hòang-hôn, thì hình ảnh buồn
nhất của mùa thu là mưa thu. Chính những giọt mưa thu đã làm cho lòng người
lạnh-lẽo, u-buồn, làm cho lòng người hoang vắng sầu thương, bơ-vơ giữa
thế-giới mưa rơi buồn-bã.
Trước cảnh mưa thu ảm-đạm ở ngòai bệnh-viện, nhạc-sĩ tài ba Ðặng thế Phong đã
xúc-động rồi sáng tác ngay bản nhạc " Giọt mưa thu. " trước khi
vĩnh-biệt trần-gian để lại cho đời những giọt lệ thu sầu thương nức-nở, những
giọt lệ tình ai-oán lâm-ly : " Ngòai hiên giọt mưa thu thánh-thót rơi.
Trời lắng u-buồn mây hắt-hiu ngừng trôi.Nghe gió thỏang mơ-hồ trong mưa thu
ai khóc ai than hờ "
Bởi vậy nói đến mưa thu là nói đến một trong những cảnh vật buồn-bã nhất của
trần thế. Ðọc mấy câu thơ sau đây của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy cảnh mưa thu
thật là tiêu-điều buồn-bã:
" Thánh-thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu-sơ
Xanh um cổ-thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng -giang phẳng-lặng tờ"
Hay hai câu thơ sau đây của nhà thơ Xuân-Diệu cũng cho ta thấy cảnh lặng lẽ
u-buồn:
" Gió thầm, mây lặng , dáng thu xa
Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà. "
Tuy-nhiên nếu trăng thu, nắng thu, mưa thu, là những đề tài bất-hủ cho các
văn thi-sĩ,nhạc-sĩ lấy đó để sáng-tác thì sương thu là một đề tài không kém
quan-trọng để các thi-nhân dệt thành thơ. Vào những lúc trời sáng tinh-sương,
ai đã từng ra sau vườn, đều trông thấy nhưnõg giọt sương đọng trên cành cây, ngọn
cỏ giống như những hạt kim-cương lóng lánh đẹp tuyệt vời. Cho đến ngày hôm
nay,rất nhiều người Việt-nam đã thuộc lòng đọan văn của nhà văn Thanh-Tịnh tả
về cảnh sương thu : " Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy
gió lạnh, mẹ tôi âu-yếm nắm tay tôi,dẫn tôi đi trên con đường làng dài và
hẹp." Một nhà thơ nỗi tiếng như sóng cồn một thời vang bóng đã ca-ngợi
sương thu qua bài thơ "Sương rơi" Ðó là thi-sĩ Nguyễn-Vỹ với bài
thơ hai chữ đã để lại cho đời một tác-phẩm bất-hủ về sương thu:
"Sương rơi Rồi hạt Rơi sương
Nặng trĩu Sương trong Cành dương
Trên cành Tan-tác Liễu ngã
Dương-liễu Trong lòng Gió mưa
Nhưng hơi Tả-tơi Tơi-tả
Từng giọt
Gió bấc Em ơi! Thánh-thót
Lạnh-lùng Từng giọt Từng giọt
Hiu-hắt Thánh-thót Tơi-bời
Thấm vào Từng giọt Mưa rơi,
Em ơi Ðiêu-tàn Gió rơi;
Trong lòng Trên nấm Lá rơi,
Hạt sương Mồ hoang! Em ơi!"
Thành một
Vết thương! Nguyễn-Vỹ.
Như đã được trình bày ở trên, mùa thu là mùa có lá vàng rơi lác-đác, có trăng
thu mờ aỏ giữa đêm buồn,có những giọt mưa rơi thánh-thót thật lâm-ly. Ðã thế,
nhiều lúc ánh nắng chiều thu làm cho người lữ-hành thêm cô-độc bâng-khuâng, luôn
luôn cảm thấy như xa vắng lạc-lòai, như biệt-ly hiu-quạnh.Vì thế mà nhiều
người đã cho rằng mùa thu là mùa của biệt-ly,của xa cách nên tình thu thường
nức-nở nghẹn-ngào. Mùa thu là mùa nhớ nhung từ đó và cũng là nhung-nhớ từ
đây. Thế nên nói đến mùa thu là nói đến biệt-ly nhung-nhớ, là nói đến
ngăn-cách xa nhau, là nói đến chia-ly buồn-bã và lắm lúc nói đến vĩnh-biệt
ngàn đời để rồi " nghìn-trùng xa cách người đã đi rồi, còn gì đâu nữa mà
khóc với cười ."
Sau đây, ta hãy nghe các thi-nhân Việt-nam nói về sự biệt-ly,sự nhung-nhớ
cũng như những nỗi u-buồn giữa mùa thu :
" Mây vẫn từng không chim bay đi
Khí trời u-uất, hận chia-ly
Ít nhiều thiếu-nữ buồn không nói
Tựa cưả nhìn xa nghĩ-ngợi gì "
(Xuân-Diệu )
Hay những dòng thơ lục-bát đầy vẻ âm-u,tiêu-điều của Huy-Cận;
" Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân-gian e cũng tiêu-điều dưới kia . "
Hoặc những câu thơ đầy nhung-nhớ quằn-quại giữa mùa thu:
" Chao ôi! mong nhớ! ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn."
(Chế lan Viên)
Hay hình ảnh xa vắng biệt-ly của người chinh-phu trong lòng người cô-phụ:
"Em không nghe rạo-rực
Hình ảnh kẻ chinh-phu
Trong lòng người cô-phụ. "
(Lưu trọng Lư)
Hoặc là những câu thơ đầy nỗi nhớ-thương của thi-nhân:
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man- mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Thái-Can)
Nhưng sự biệt-ly đớn đau nhất hay nỗi nhớ-nhung quằn-quại triền-miên cũng như
sự khổ đau cay đắng suốt đời mà ta có thể thấy được là những dòng thơ nức-nở
lệ nhòa
của nữ thi- sĩ T.T.KH, một nhà thơ đã sáng tác nên những bài thơ bất-hủ ngàn
năm và đã trở thành huyền thọai trong thi-ca Việt-nam. Ta hãy nghe nhà thơ
T.T.KH nức-nở những điệp-khúc tình thu sau đây:
" Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có còn đâu!"
hay là:
"Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái-ân lạt-lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người ."
Tóm lại qua thi-ca Việt-nam, ta thấy hầu hết các thi- nhân nước Việt đều nói
đến mùa thu, ca ngợi mùa thu vì mùa thu có những đêm trăng mờ ảo, có những lá
vàng rơi tuyệt đẹp, có những giọt mưa thu thánh thót rơi thật lâm-ly, bi-thảm
vv.. Và cũng vì mùa thu là mùa của ngăn-cách, của ly-biệt,là mùa của nức-nở
nghẹn-ngào nên các thi-nhân Việt-nam không ai mà không xúc-động khi thấy mùa
thu đến. Vì vậy, qua thi-ca Việt-nam,ta thấy nhiều nhà thơ đã để lại cho đời
những bài thơ trữ-tình bất-hủ về mùa thu.
Dương Viết Điền
|
Last
Updated (Tuesday, 08 November 2005 )
|
Thơ
Phóng Tác: Vương Ngọc Long
Phổ nhạc: Mai Đức Vinh
Cảm
Xúc Đêm Trăng
(Ý thơ Tĩnh Dạ Tứ - Lý Bạch)
Đêm thu
lặng lẽ gió phiêu phiêu
Réo rắt bên song tiếng sáo diều
Cố quận xa xăm sầu lữ thứ
Một mình quán vắng cảnh đìu hiu
Lá đổ
mây giăng luống thẫn thờ
Rừng phong trở giấc động hồn thơ
Vi vu nhạc gió bên đồi vắng
Khắc khoải năm canh mắt lệ mờ
Ngổn
ngang trăm mối vấn vương lòng
Ngàn dặm quê xa bóng chập chùng
Xào xạc thu vàng nghe tiếng vọng
Thềm trăng đầy ắp lá ngô đồng
Thổn
thức hồn quyên mộng tỉnh say
Sông xưa bến cũ nhớ từng ngày
Phơ phơ tóc bạc đời sương điểm
Thở vắn đêm dài ngấn lệ cay
Đầu
giường vằng vặc ánh trăng soi
Cứ ngỡ sương rơi đất trắng ngời
Trăng chiếu trời cao mê mẩn ngắm
Cúi đầu ... thương nhớ cố hương ơi!
Vương Ngọc Long
No comments:
Post a Comment