Trăng
nước Tầm Dương
Sông nước chèo khuya dạ ngổn ngang,
Trời mây lồng lộng quyện cung đàn.
Nỉ non sóng vỗ niềm than thở,
Ray rứt trăng soi mặt héo hon.
Nghìn thu sớm tối bao còn mất,
Một bóng mai chiều mấy hợp tan.
Bến vắng chơi vơi hồn viễn xứ,
Đò neo đêm lạnh sầu mang mang.
Trăng đêm nay đẹp quá.
Trăng dằng dặc mênh mông trời nước.
Trăng nhỏ từng giọt, từng giọt lung linh mặt sóng lao xao, trăng lấp lánh ngân
nhũ đong đưa hàng liễu rũ.
Trăng huyễn hoặc mông lung. Trăng ảo mờ sương khói.
Trăng kết ngọc, dát vàng bãi sậy bờ lau.
Chân trời thăm thẳm, ngàn sao nhấp nháy
trường không.
Ðom đóm lập lòe bóng ma trơi thấp thoáng lùm cây bụi cỏ, côn trùng rỉ rả tiếng
vọng âm cung văng vẳng xa xôi.
Gió phất phơ ngọn cỏ hiu hiu mang theo chút hơi hướm rong rêu lãng đãng mạn
thuyền, gió vỗ về lượn sóng nhấp nhô xô dạt chân cầu xào xạc v.v...
Chao ôi! Ðất trời hạo đãng như thế đó,
ánh trăng diễm lệ như thế đó, mà nàng, Cầm Nương, một mình, ngồi cạnh mạn
thuyền buông neo bên dòng nước bồng bềnh sóng bạc. Hỡi ơi!
Lạnh lẽo viền trăng soi má nhạt,
Ðằng đẵng sông dài sao rớt khuya.
Lặng lẽ tinh cầu xoay chuyển mãi
Cô đơn vời vợi biết ai chia???
Biết ai chia! Biết ai chia!
Không có ai cả!
Trước sau chỉ một mình nàng đối nguyệt
trầm tư!
Cầm Nương ngắm bóng, ngắm trăng nghĩ
ngợi miên man.
Trời trăng mây nước bao la bát ngát diễm lệ vô cùng, nó khiến lòng thế nhân
chìm đắm vào một cõi hư hư huyễn huyễn. Ánh trăng kia đã chiếu xuống trần gian
từ bao đời bao kiếp, đã chứng kiến biết bao thịnh suy của cõi nhân gian, của một đời người. Ôi!
Ánh trăng nào soi mặt chinh phu quạnh hiu gió cát, còn ánh trăng nào ngậm ngùi
phòng khuê lạnh lẽo canh khuya? Ánh trăng nào theo dấu Minh phi Hán Hồ lưu lạc,
còn ánh trăng nào rơi rụng chuông ngân trên bến Phong Kiều? Từ thủa khai thiên
lập địa thăm thẳm hoang sơ, nguyệt cầu kia đã là niềm cảm hứng vô tận cho nhân
thế. Con người đã tốn biết bao bút mực, tim óc để ngợi ca cái ánh sáng huyền
hoặc này, thậm chí đã có người nhảy xuống nước ôm trăng mà chết, thử hỏi nếu
trăng không quyến rũ thì sao có thể như vậy. Tưởng tượng rằng một ngày nào đó
nguyệt cầu kia tự dưng vắng bóng thì thế gian này sẽ ảm đạm ra sao. Chao ôi,
một kiếp người ngắn ngủi biết bao so với ánh trăng chiếu ngời trong vạn đại.
Vạn đại! Vạn đại!
Vạn đại bắt đầu từ bao giờ và bao giờ sẽ
chấm dứt, sau ta rồi sẽ là ai cho vầng trăng ấy sáng soi. Chỗ ta ngồi hôm nay,
nghìn xưa ai đã từng ngồi? Một câu hỏi không có câu trả lời. Nhất định là như
thế, ai có đủ thẩm quyền để trả lời câu hỏi kia, nàng chẳng biết, chỉ thấy dòng
sông cứ miên man trôi chảy, trôi chảy không ngừng. Bấc giác mấy câu thơ đời
trước hiện về, nàng ngậm ngùi cảm ngộ, người xưa đã chẳng từng than thở thế ư???
Người bên sông ai nhìn trăng trước,
Trăng soi người buổi trước năm nao
Ðời đời kiếp sống nối nhau
Tháng năm sông nước trăng sao vẫn cùng
Chẳng biết trăng soi chung ai đấy
Chỉ thấy dòng nước chảy miên man …
Chao ôi!
Nguyệt thủy nhất phương!
Trăng nước một vùng!
Tịch mịch! Thậm tịch mịch!
Cái không gian tịch mịch này, Cầm Nương
đã đối diện với nó không biết từ bao giờ. Tuy vậy, nó vẫn không đáng sợ bằng
nỗi tịch mịch trong lòng của nàng. Người ta nói đáng sợ nhất là cái tịch mịch
trong lòng người đàn bà khi về chiều. Không phải chính là nàng bây giờ hay sao?
Tâm tư Cầm Nương chùng xuống, chùng
xuống thật sâu.
Nàng ngồi đó, ngồi bên mạn thuyền, rất
lâu, rất lặng lẽ, lòng nàng chìm theo tiếng nước trôi sóng vỗ, tiếng vạc kêu
sương. Mắt nàng ngắm những tảng mây bay qua tầng không trong vắt ánh trăng
nhưng lòng nàng trôi theo làn nước miên man xuôi tận cuối dòng. Không thấy gì
cả, không một bóng con thuyền nào thấp thoáng cho nàng khởi lên niềm hy vọng,
hy vọng trông thấy một hình ảnh quen thuộc đang trở về, dù chỉ là hy vọng
thoáng qua rồi tan biến.
Sương xuống hơi nhiều, không gian chớm
thu chừng như giăng thêm tơ mới, mông lung hơn, huyền ảo hơn. Nàng nghe
lành lạnh bờ vai, bất giác, nàng đưa đôi tay gầy guộc ôm choàng bờ vai nhỏ bé
của mình. Ðã lâu, đã lâu, bờ vai của nàng dường như quên mất cái thói quen tựa
vào vai của người khác, nó trống trải, nó lẽ loi quá.
Bấc giác, nàng nhìn lại đôi tay của
mình. Dưới ánh trăng diễm ảo, đôi tay nàng vẫn nổi bật lên một màu trắng muốt.
Ôi! Ðôi bàn tay của nàng. Ðôi bàn tay một thời khoấy động chốn Ngũ Lăng, đôi
bàn tay một thời khiến lòng người điên đảo.
Nàng nhớ quá những trận cười hào sảng, nàng nhớ quá những lụa đỏ khăn hồng. Nàng nhớ chung Lục Nghị
sóng sánh màu hổ phách, nhớ chung Bồ Ðào phơn phớt sắc ráng pha…Lâng lâng, lâng
lâng men rượu ngọt. Nao nao, nao nao sóng hồ thu…Tất cả những hình ảnh ấy đã chìm
sâu vào dĩ vãng xa lắc xa lơ. Thu ba đào kiểm Má phấn môi hồng! Chao
ôi! Còn nhắc làm chi nữa. Ðã là dĩ vãng! Ðã là dĩ vãng! Giờ này còn gần gũi với
nàng nhất, còn trung thành với nàng nhất, họa chăng là chiếc tỳ bà cũ kỹ thiết
thân. Nàng thở dài thán tức, không dừng được cảm hoài, nàng đứng lên khom lưng
đi vào khoang thuyền, nàng khêu ngọn bạch lạp, vói tay lên vách đỡ nhẹ cây tỳ
bà xuống. Ôm đàn vào lòng, nàng nhẹ nhàng vuốt ve những phím tơ như đang vuốt
ve một đứa trẻ thơ. Nàng mường tượng nàng đang sờ vào đầu nó, sờ vào má nó, đôi
má thơm lừng hơi sữa ngọt ngào. Nàng áp mặt lên bụng đàn thon thả bóng nhẵn hít
vào phế nang mùi hương quen thuộc của chất gỗ thấm đẫm hơi tay nàng. Nàng đã sờ
vào đó, chạm vào đó không biết bao nhiêu lần mà nói, mấy chục năm qua có đêm
nào nàng không ít nhất một lần nâng niu nó, dù nàng có nhã hứng hay không có
nhã hứng khảy nên cung bậc, nàng vẫn săm soi nó như săm soi một món cổ ngoạn
quý giá. Ðã từ bao năm nay nó là vật bất ly thân của nàng.
Ðêm nay trăng đẹp quá, lòng nàng mênh
mông quá, tâm sự trùng trùng của nàng chỉ có thể gửi gấm cùng mây cùng gió,
cùng tiếng đàn dặt dìu khoan nhặt. Nước trời lồng lộng bao la, một thuyền một
lái bỏ neo đêm vắng lạnh lùng, nàng biết tỏ bày mối cảm hoài với ai
ngoài tiếng đàn của nàng.
Khoác thêm chiếc áo, ôm cây đàn trong tay, nàng lại khom lưng bước ra đầu
thuyền. Nàng chẫm rãi khơi một đỉnh trầm, khói hương thoang thoảng quyện vào
không gian tịch mặc khiến nàng không dám chuyển động mạnh, nàng nhẹ nhàng ngồi
xuống khoanh chân, thẳng lưng, hít thở mấy hơi dài, chiếc đàn đã đứng gọn
nghiêng nghiêng trong lòng, nàng bắt đầu nắn phím, so tơ, đôi tay nàng nhẹ
nhàng lướt qua hàng phím, những âm thanh trầm trầm bổng bổng run rẫy vang lên.
Nàng khép hai hàng mi lại, thôi không nhìn, không ngắm trời mây nữa. Trong bóng
đêm mờ ảo ánh trăng, nàng có mở mắt cũng không thấy được gì nhưng cho dù nàng
có nhắm mắt đi nữa thì nàng vẫn thấy rõ mồn một từng phím, từng phím tơ của
nàng, từng vị trí cung bậc của thang âm, nàng đã quá quen thuộc với nó. Ðôi tay
của nàng có gầy guộc xanh xao hơn nhưng vẫn còn nhanh nhẹn, vẫn còn nhạy bén
trong việc thay đổi vị trí cung bậc. Làm sao nàng có thể quên được chứ, làm sao
nàng có thể chậm được chứ, nàng và đàn đã hòa làm một từ lâu, máu thịt, hơi thở
của nàng được tiếp tục sinh tồn là nhờ âm thanh dìu dặt réo rắt của tiếng đàn
kia mà. Nàng nhắm nghiền đôi mắt nhưng đôi tai của nàng vẫn tinh nhạy vô cùng, tiếng đàn réo rắt nhặt
khoan hòa lẫn tiếng gió vi vu xào xạc, tiếng sóng vỗ rì rào, tiếng côn trùng rỉ
rả. Ôi! Còn có bản hợp tấu nào vượt qua nổi bản hợp tấu đặc biệt này, nàng đắm
chìm trong tiếng đàn của mình, đôi tay nàng lướt trên phím đàn một cách vô tâm
vô thức, nàng quên hết phiền muộn, quên hết chờ đợi nhớ nhung, quên hết trời
rộng đất dày. Kìa là hình ảnh chập chờn thủa trước, xuân thắm má đào, chúc
quang rực rỡ, tử y hồng quần thướt tha quấn quít theo cung đàn tiếng nhạc, kìa
là những khuôn mặt thẫn thờ, những đôi mắt đam mê dõi theo dải lụa quay tít của
nàng. Leng keng ngọc bội kim hoàn, lách cách cung thương sênh phách, những âm
thanh ma mị ru hồn người văng vẳng bên tai. Ðắm chìm! Ðắm chìm! Mê man! Mê man!!!
Nàng không nhớ, không biết mình là ai nữa.
Tiếng đàn réo rắt quá như gió
lướt rừng thông, tiếng đàn nỉ non quá như ve sầu khóc hạ, tiếng đàn miên man như
nước cuốn Trường Giang, tiếng đàn thánh thót như mưa rơi phiến đá. Cung bậc ấy,
thanh âm ấy hẳn là phải do một bàn tay ngà ngọc chuốt trau. Chao ôi, ở chỗ đất
thô lậu này sao lại có thể sản sinh một dìệu thủ như vậy. Tư Mã Giang Châu ghìm
cương ngựa lại lắng nghe. Ðêm thu quạnh quẽ, lác đác lá phong, hơi may
se sắt lướt qua. Chàng chợt nhớ đến tấm áo choàng hãy còn nằm vắt vẻo trên yên
ngựa, tấm áo choàng màu xanh của chàng đã cũ kỹ, bông đã sờn đôi chỗ nhưng Tư
Mã chẳng màng thay đổi, thân phận trích thần như chàng có vui gì, có thích gì
mà xênh xang áo mũ. Quanh năm đối mặt với đám dân đen chơn chất nghèo nàn ở
chốn sơn lam chướng khí này, chàng có ăn mặc đẹp cũng chẳng lấy làm hãnh diện
với ai. Lúc còn bé ở Từ Châu, chàng đã sống qua những tháng năm loạn lạc, mắt thấy
dân tình điêu đứng khổ sở bởi họa binh đao và bị nhũng nhiễu bóc lột bởi đám
quan lại tham ô nên chàng thấu hiểu những nỗi thống khổ của người dân quê, rồi
khi trưởng thành, được cơ hội lên kinh đô Trường An, thi cử đỗ đạt, bắt đầu lui
tới trong chốn quan trường, căm ghét bọn triều thần hủ bại thối nát, dùng ngòi
bút lời thơ của mình mà đả kích khiến chàng trở thành cái gai trong mắt những
kẻ nắm trọng quyền, và cũng vì thế mà chàng hết bị đày biếm chốn này đến trích
giáng xứ kia, toàn là những chốn mà bọn quan lại sâu mọt chán chê vì chẳng có
gì để gặm nhắm, thì hỏi sao dân tình không cơ cực điêu linh. Người dân quê chất
phát tay lấm chân bùn chưa dám nghĩ đến việc ăn no mặc ấm, huống hồ là ăn ngon
mặc đẹp. Chàng đành lòng nào áo mão xun xoe. Tư Mã kéo tấm áo khoác lên mình
rồi nhìn sang bạn, cả hai không nói lời nào nhưng cả hai đều hiểu, tiếng đàn
kia đã làm cho buổi đưa tiễn hôm nay bị đình trệ mất rồi. Men rượu vừa nâng
toan uống đã không đủ làm ấm lòng hai kẻ sắp chia tay, sông nước mênh mông bàng
bạc một màu trăng, buồn biết mấy, không đàn không sáo. Vậy mà, vó ngựa chàng
vừa dợm bước đi thì bỗng đâu trỗi lên tiếng đàn dìu dặt khoan thai này, bảo sao
chàng không ghìm cương ngựa được. Người bằng hữu của chàng dường như cũng đã dừng
chèo, cũng đang lắng nghe như chàng. Tiếng đàn tuyệt vời mang theo âm hưởng
kinh thành từ đâu mà vang vọng tới đây? Ðã hai năm qua kể từ ngày giã biệt đế
khuyết phụng hành trích giáng, chàng không được nghe những tiết điệu nhã nhạc
của chốn phồn hoa đô hội nữa. Dường như tiếng đàn lãng đãng trôi theo dòng nước
quanh đây, vậy là đâu đó trên sông khuya có một con người đang mang mang tâm
sự. Tư Mã quày quả xuống ngựa, chàng dắt ngựa cột vào gốc cây phong đứng trơ vơ
bên cạnh thủy đình rồi ra dấu cho thuyền ghé sát độ kiều để chàng bước xuống,
chàng khoát tay với bạn “Ta hãy đi tìm tông tích tiếng đàn kia”.
Cầm Nương chưa rời được nỗi niềm xúc
cảm tự tâm tư vừa được nàng khơi dậy qua đôi tay tuyệt vời với tiếng đàn réo
rắt của nàng thì lạ chưa, dường như có tiếng người văng vẳng đâu đây. Nàng có
nghe lầm chăng? Bến vắng tha phương này đã bao đêm âm thầm lặng lẽ giống như
đời sống của nàng, sao hôm nay, khuya khoắt dường này, có điều gì bất ổn chăng?
Tiếng chèo khua nước ngày càng gần hơn và hình như…, hình như …họ đang cao
giọng hỏi nàng thì phải…Té ra họ đang đi tìm xuất xứ của tiếng đàn nàng. Cầm
Nương ngập ngừng, có nên cho họ biết là mình vừa đàn hay không? Là quen hay lạ,
là dữ hay lành? Cầm Nương hắng giọng, toan lên tiếng rồi lại thôi. Ích gì đâu,
một tiếng đàn lạc lõng cô đơn đã trải bao sông nước đìu hiu rồi cũng sẽ lại
trải thêm những đìu hiu sông nước cho đến lúc nào đó không còn tinh diệu nữa
thì thôi, chẳng có gì thay đổi nữa đâu, là lạ hay quen, nào có gì trọng đại!
Nhưng kìa, tiếng chèo khua sóng dường như đang ở đâu đó quanh thuyền nàng, và
tiếng người hỏi han vẫn cao giọng, chân thành. Cầm Nương tần ngần một đỗi. Chao
ôi! Tâm hồn mẫn cảm như nàng sao có thể làm ngơ cho được. Cầm Nương cất giọng
hồi đáp:
- Là dân phụ, là tiếng đàn của dân phụ,
xin hỏi quý quan nhân có điều chi chỉ dạy”.
- Chúng tôi, hai khách nhàn du, nhân lạc bước qua đây, nghe được khúc đàn tuyệt
vời của tôn nương, muốn thỉnh tôn nương tương kiến.
Chao ôi! Tương kiến nữa à? Thật khó cho
nàng quá, nàng đâu phải là một ca kỹ đàn ca múa hát để mua vui cho khách hào
hoa như ngày nào nữa chứ. Nàng bây giờ đã là Nương tử của trượng phu nàng,
tương kiến cùng kẻ xa lạ, e là nàng sẽ lỗi đạo chăng? Huống nữa, ngày xưa dù
còn là một ca kỹ nhưng đâu phải ai cũng có thể tương kiến cùng nàng, cũng đâu
phải hễ ai bỏ ra nghìn vàng là có thể nghe được tiếng đàn của nàng (1), lui tới với nàng
thường chẳng phải là hạng tục khách. Nàng cất giọng thưa trình:
- Xin quý quan nhân rộng tình lượng
thứ, thật là thất lễ, dân phụ thiếp không thể đáp ứng thỉnh cầu. Dân phụ vốn là
hữu chủ chi hoa nên không thể tùy tiện tương kiến người xa lạ.
Im lặng một lúc, Cầm Nương nghe một
giọng nói chân thành trịnh trọng cất lên.
- Xin tôn nương hãy yên tâm, chúng ta
đây thật ra cũng không phải người xa lạ. Ta, Hương Sơn Cư Sĩ, tính Bạch danh
gọi Lạc Thiên, cũng chính là quan Tư Mã Giang Châu sở tại, từ đế kinh bị trích
giáng đến đây. Ðã hai năm qua, Bạch ta chưa từng nghe được những điệu nhã nhạc
thánh thót du dương tựa như ở chốn tiên cung này, ngưỡng mộ người đồng điệu nên
mới tìm đến mong thỉnh kiến tôn nương, quyết không dám làm điều chi mạo phạm
tôn giá.
Cầm Nương ngẩn người khi nghe khách lạ
xưng hô danh tánh. Phải chăng đó là thi nhân nức tiếng đương thời Bạch Cư Dị
(2) ở đế đô? Làm sao mà người lại lưu lạc tha phương mãi tận chốn này? Nếu thực
đúng là người ấy thì chắc chắn không phải là kẻ phàm phu tục tử rồi. Tuy rày
đây mai đó theo thuyền buôn của trượng phu trên khắp Ðại Giang nam bắc (3) nhưng nàng vẫn có dịp
được nghe phong thanh lời ca ngợi tài đức của vị danh sĩ họ Bạch này. Nàng từng
nghe rằng người đối với chị em giới kỹ nữ tuyệt không có lòng rẻ rúng khinh khi
như hầu hết khách mua vui chức trọng quyền cao nhiều tiền lắm bạc khác. Không
biết hư thực thế nào, âu là, hôm nay nàng mạo muội diện kiến một phen cho biết
giả chân.
oOo
Người về sương lạnh canh thâu,
Ðàn tôi nhỏ giọt bên cầu rụng trăng.
Chèo khuya sông nước miên man,
Áo xanh một phiến bàng hoàng mây trôi.
Tiếng chèo khua nước xa dần rồi mất hẳn.
Mặt sông trở lại nỗi mênh mang tịch
lặng ban đầu, cái mênh mang tịch lặng trước khi có hai con người đến đây khoấy
động những ngày đêm âm thầm một bóng của nàng. Cầm Nương thở dài thán tức. Họ
đã đi rồi! Và chắc có lẽ không bao giờ trở lại nữa đâu. Ðó là tính chất của
cuộc đời, nàng vẫn thường biết vậy, có gặp gỡ nào mà không kết thúc bằng chia
xa, có hợp nào mà không tan. Cuộc đời nàng đã chứng kiến biết bao tương ngộ
phân ly, biết bao hợp tán. Nhưng mà, tương ngộ phân ly lần này chắc chắn sẽ
để lại cho nàng những tháng ngày còn lại khó nguôi ngoai. Từ nay, đêm đêm nàng
sẽ cưu mang thêm một nỗi đợi chờ khắc khoải khác dù nàng biết là vô vọng. Nàng
và họ …bình thủy tương phùng…bèo nước gặp nhau …rồi…nước trôi dòng nước, bèo
trôi đời bèo, trong muôn một dễ đâu mà có cơ hội tương ngộ lần thứ hai. Vả lại,
hãy còn một khoảng cách lễ nghi, cho dù người ấy có trở lại để nghe tiếng đàn
của nàng thì mọi việc cũng sẽ diễn ra trong âm thầm lặng lẽ mà thôi. Chao ôi!
Nếu được như vậy thì cũng không uổng phí cho tiếng đàn của nàng, nàng nào mong
muốn gì hơn. Hỡi ơi! Lão thương thiên trớ trêu chi bấy! Sao lại khơi dậy trong
lòng nàng những hồi ức xa xăm tưởng chừng như đã chìm lắng mất hút dưới tận đáy
sông sâu vực thẳm kia. Những đêm dài trở trăn mộng mị cùng ký ức đầy hình ảnh
một thời huy hoắc đã xâu xé tâm tư nàng quá đủ rồi, huống hồ, đêm nay, một bậc
đương thời danh sĩ đã rơi lệ đầm đìa vì cảm khái tiếng đàn của nàng, một thiên
trường thi vì nàng mà tác xuất. Nàng tự biết rằng mình sẽ lại phải trải qua lắm
đêm dài mộng mị từ đây. Người lữ khách không mời mà đến, thân thế phi thường
kia đã chẳng nề hà đẳng cấp hạ cố đến nàng mà thốt nên câu “Ðồng thị thiên nhai
luân lạc nhân” há không đáng để cho nàng cảm kích muôn phần sao. Huống nữa,
nàng, một đóa hoa phấn nhạt hương phai, chút cầm nghệ riêng tư của nàng so với bọn
đương thời danh kỹ ở chốn đế đô cũng đã trở thành lỗi điệu mất rồi. Vậy mà,
người ấy, một người đã từng lai vãng biết bao nhiêu là trà đình tửu quán, giao
kết biết bao nhiêu là hào môn vọng tộc, xuất nhập đế khuyết biết bao nhiêu
triêu mộ, lại có thể vì thân phận của nàng mà nhỏ lệ rơi châu ướt đầm tấm áo.
Lòng nàng ngập tràn nỗi cảm kích. Tri âm trong trời đất thực hiếm hoi, khó gặp
khó tìm. Tâm sự trùng trùng của nàng không ai hay biết, vậy mà người chỉ nghe
vài tiếng đàn của nàng là đã lập tức thấu suốt. Nàng có nói muôn lời nghìn chữ
cũng không nói hết được lòng cảm kích chân thành. Chỉ ân ân cần cần nghiền ngẫm
cái câu “Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhân - Cùng một lứa bên trời lận đận” là
đã đủ khiến nỗi tịch mịch trong lòng nàng vơi đi, là đã đủ cho nàng tâm trung
mãn nguyện, mai sau bèo dạt hoa trôi chung cuộc thế nào cũng mặc, một lần gặp
gỡ trong đời như thế là đã quá xứng đáng để bù đấp cho chuyện mất còn nhân thế.
Nàng cảm kích, cảm kích muôn vàn …
Tạ khách tri âm
Than ôi!
Tri âm trời đất hiếm hoi,
Nao nao tâm sự ai người biết cho.
Người nghe suốt một tiếng tơ,
Lại vì ta phổ thành thơ vắn dài.
Tạ ơn tấc dạ quan hoài,
Ngàn lời vạn chữ khó bày lòng chân.
Một câu nghiền ngẫm ân cần,
“Bên trời lận đận đôi đàng khác đâu”
Ðủ ta thỏa nguyện thâm sâu,
Bèo trôi nước chảy mai sau mặc lòng.
Kiếp người một buổi tương phùng,
Thế gian san lấp tồn vong cũng vừa.
Chao ôi!
Có ai biết được rằng buổi hội ngộ trăng
nước Tầm Dương kia đã để lại cho hậu thế cả ngàn năm sau một áng văn chương
tuyệt tác mãi làm rung động lòng người. Nhưng mà có thực là đã xảy ra buổi
tương ngộ ấy chăng? Hay chỉ vì muốn ký thác tâm sự thầm kín khó nói trước những
thế lực của cung đình và sự hàm hồ của một đấng quân vương mà tác giả đành phải
mượn lời kỹ nữ để ví với thân phận của mình??? Ai mà biết được!
Hạt Cát
Viết tại Khán Vân Hiên
08/29/03
Một áng mây vờn mặt nguyệt,
Một hồ sương khói lung linh.
Một cơn gió đùa liễu biếc,
Cần chi tụng mấy biến kinh. *
Ðông về thêm áo khoác,
Hạ cứ cởi trần vai.
Cần chi mà thắc mắc,
Kiếp trước mình là ai *
Mây trôi về lũng thấp,
Hoa tím hàng phên xưa.
Thương ai lòng chưa gặp,
Ðành phai hương cuối mùa.
Mây phai hồng cuối lũng,
Nắng úa vương đồi tây.
Chao ơi! Làn khói mỏng!
Còn đong đưa tình hoài. *
Gió mây tan tác bên trời,
Xôn xao năm tháng ngậm ngùi xuân xanh.
Quê người nữa kiếp phù sinh,
Biết trăm năm nấm mộ mình nằm đâu?
Chập chờn khói mỏng trời cao,
Miên man dâu bể sóng xao đêm ngày.
Vô thường đến chẳng riêng ai,
Biết trăm năm cái tâm hoài ta đâu? *
Chiều xuân tuyết lạnh rơi sầu lòng ta.
Nhớ nhung dằng dặc quê nhà,
Biết trăm tuổi hạc mẹ già giờ sao?
Mẹ giờ như dĩa dầu hao,
Dầu khô tim lụn lao chao gió đùa.
Trải bao năm gội nắng mưa,
Một đời vì trẻ sớm trưa dãi dầu.
Xứ người cửa rộng lầu cao,
Xót xa cho mẹ quê nghèo hẩm hiu.
Ðứa con mẹ đã chắt chiu,
Nới vòng tay mẹ dắt dìu từ đây.
Nhớ mong mẹ đếm tháng ngày,
Con xa vắng mẹ lạc loài mẹ ơi.
Sớm thăm tối viếng lỗi rồi phận con.
Ðêm nằm tay gát tay buông,
Dục cơn huyễn mộng đưa hồn về thăm ...
(HC-1980)
Thuyền ra cửa bể đáp lời tự do.
Rưng rưng nước mắt chiều mưa,
Vẫy tay lần cuối cho vừa luyến lưu.
Mẹ ơi một lạy giã từ,
Chim non lìa tổ, bay mù gió sương?
(1980)
Bâng khuâng sương trắng đã đầy nhớ mong.
Chiểu rơi thấp thoáng buồn nong,
Nước non trăm nẽo nghìn trùng cách xa...
Ðường quê hiu hắt nắng tà,
Cuối chiều bóng mẹ đổ già qua sông.
Ðò đưa mỏng cánh buồm giong,
Năm nào con mẹ tách giòng ra khơi.
Sóng giăng mây nổi đầy trời,
Ðưa con mẹ tiễn không lời tiễn đưa.
Chập chùng đáy mắt già nua,
Thương con mẹ đổ giòng mưa xuống lòng.
Mẹ ơi giờ đã muôn trùng,
Con đi mang nặng tất lòng ly hương.
Tháng ngày trải tuyết đầm sương,
Áo cơm ấm lạnh tha hương xứ người.
Chiều chiều trông cánh chim trời,
Tấc lòng ly tử bồi hồi thương quê...
(1980)
Tóc mẹ trắng hồn quê.
Nhớ con ngồi viễn vọng,
Mây chiều trôi bốn bề.
Bên thềm cơn gió tạt,
Con dế gáy buồn thiu.
Mẹ ngồi lần chuỗi hạt,
Tay năm ngón run chiều.
No comments:
Post a Comment