Saturday, August 22, 2020

Mặc Phương Tử 5: Sen và cá - Tác bạch cảm niệm Vu Lan

 Sen và cá - Tác bạch cảm niệm Vu lan

Thu - Thời Gian
 Mặc Phương Tử
 
Vạt nắng nghiêng nghiêng vàng rót xuống
Rừng thu man mác chốn cô liêu
Phải chăng lá rụng mùa hiu hắt
Là để cành ươm lộc diễm kiều.
Gió quạnh bờ sương chừng lắm nỗi
Đời hoang lối mộng biết bao nhiêu.
Ta dừng chân giữa hồn hoa cỏ
Lòng đếm thời gian... nhớ một chiều.
 
Họa:
 
Chìm Ngõ Ngàn Xa
Ca Dao
 
Phiến sương cổ tích nhẹ rơi xuống,
Gởi lá đỏ về chốn tịch liêu
Liếp gió khói đùa thu chín ửng
Hiên chuông hoa rụng nét yêu kiều
Đã tìm miền cũ nhiều cho lắm
Rồi xót duyên ngà cũng bấy nhiêu
Giã biệt vàng  xưa vùng huyễn mộng
Nghiêng theo hoa trắng rụng bên chiều.
 
Trăng Khuyết
(Nguyễn Gia Khanh)
 
Độ ấy câu thề đã xẻ hai
Từng đêm mãi thẹn với canh dài
Vần thơ lẻ mộng càng hoang vắng
Chén tửu đơn tình cũng nhạt phai
Bướm bỏ vườn xưa thờ thẫn bạn
Chân tìm lối cũ mỏi mòn ai
Cùng chia một nửa vành trăng khuyết 
Để lỡ làng nhau trọn kiếp hoài.
 
Hoạ 1:
 
Tà Trăng
(Ca Dao)
 
Trăng miền cổ tích đã chia hai,
Trăng vỗ chiêm bao đẫm giấc dài
Bên liếp gió, trăng soi tẻ nhạt
Giữa tầng không, nguyệt đổ tàn phai
Nghê Thường trầm khúc loang thân cỏ
Ngọc Thố sầu tâm đợi dáng ai
Hờ hững Hằng Nga treo nhánh úa
Rưng rưng Nguyệt Bạch rót u hoài.

Họa 2:
Trăng
(họa  với Tà Trăng)
Nam Kha
Trăng rụng suối ngàn..một hóa hai
Trăng xanh thăm thẳm lướt canh dài
Miên man trăng nhuộm màu vàng úa
Ngun ngút trăng treo bóng lụy phai
Khi nhớ trăng ru hồn năm cũ
Lúc buồn trăng điểm mắt tình ai
Vi vu gió cuốn trăng òa vỡ
Cuồn cuộn dòng trăng ray rứt hoài
 
Khoảnh Khắc Sông Dinh
Hải Ly
 
Sông đội vầng trăng lặng lẽ trôi,
Cầu Dinh gánh phố xẻ làm đôi
Bờ nam Tân Định hồn đâu mất
Bến bắc Bình Khang phủ vắng rồi
Nem nướng, nem chua làng xóm Rượu
Vịt chăn, “vịt lội” nước bầu Bơi
Thanh Lương chuông đổ đêm đêm vọng
Dốc Lếch tình em biển mặn môi.
 
Họa:
 
Chờ Ai, Ninh Hòa?
Mai Quang
 
Mây trắng âm thầm vẫn cứ trôi,
Kìa vầng trăng cũ xẻ ra đôi
Nửa theo lửa Hạ từ khi đã
Nửa đọng màu Thu mấy độ rồi!
E nước hai lần đâu dễ tắm
Sợ dòng lắm trạo khó khi bơi
“Chờ cho rau muống lên bờ trổ”
Há chỉ trên đầu lưỡi chót môi?
Thoáng Mộng Xứ Ninh
Hoán Vĩ vận; nhị Niêm; bát Láy; ngũ hoà Thanh(*)
Tịnh Viên.

Chuyết hoạ bài Hoạ: “CHỜ AI, NINH HÒA?!” của Thi hữu Mai Quang
 
Nũng nịu dòng Dinh lụa trải rồi,
Suối mây lồng nguyệt lững lờ trôi
Vĩnh Phú thẩn thờ tre ngóng đợi
Quang Đông lả lướt liễu chèo bơi
Nước ngọc đem tình lưu luyến cảnh
Nhuỵ thơm gởi gió ngọt ngào môi
Nhung nhớ Phước Đa, mời trở lại
Phụ duyên dáng nhỏ gánh vài đôi.


Sen và cá

Đi và tìm bao “kỳ hoa dị thảo”, thế nhưng trên vạn nẻo đời, ở đâu lại không có (hoa thơm cỏ lạ) vẫn nở muôn trùng trong ta và trong cả cuộc đời.

Chiều nay, một chiều thật an bình, dưới bóng râm mát diệu của những tàn cây xanh, lồng lộng tiếng chim như trĩu thanh âm xuống phòng khách bên trong một ngôi đạo tràng. Bình trà đã rót nhiều lần, nhưng hương vị trà hãy còn thấm đậm theo dòng thế sự hoài niệm cổ kim.

Chúng tôi, mấy huynh đệ và đạo hữu trong buổi gặp gỡ thường là không hẹn, bởi giấc đi miên man thì biết đâu mà hẹn cuộc tương phùng. Bây giờ ngồi tính lại thời gian đã năm mươi năm (50) trôi xa và rồi sẽ còn trôi xa hơn thế nữa, hôm nay ngày nầy năm xưa, Bồ Tát Quảng Đức đã thắp lên ngọn lửa “vị pháp thiêu thân”, một trái tim đã ươm mầm cho hằng triệu triệu trái tim, hồng lên cho muôn trùng cõi vô minh của một thời hoang vu bạo tàn đế chế. Thế rồi, trái tim xưa vẫn tươi sắc hồng bất diệt, mà dòng đời thì cứ nặng nề lê mình qua từng khúc quanh nắng quái chưa tan. Vẫn biết rằng :

 “Chổ người ngồi một thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nét Từ Bi”
                                                          (Vũ Hoàng Chương.)

 Có người hỏi: “Bây giờ trái tim của Bồ Tát ở đâu, vì sau …?” Ở đâu và vì sau, lại dâng lên một nỗi mang mang trôi xa và trôi theo năm mươi năm của ngày ấy…

Thế rồi, câu chuyện được chuyển sang một cung bậc khác, một ý thức sống trong cuộc đời. Một đạo hữu kể rằng: “ Có vị sư nhờ tìm cho một ít loài sen trắng để trồng, để điểm vào không gian của chùa với sắc màu tinh trắng của sen, vẫn biết rằng loại sen nầy khó trồng hơn loại sen hồng.

Thời gian nghĩ quanh đây đó, chợt nhớ và vội tìm đến nơi ấy, thì ra khung cảnh hồ xưa, nay chỉ là một trũng nhỏ còn đọng lại một ít nước, trông thấy lúc nhúc mớ cá lon con còn xót lại trong hồ, phần diện tích hồ đã san lấp gần đầy. Nỗi buồn giây phút khi biết ra nay sen không còn, lại tiếp nỗi lòng trắc ẩn khi phát hiện sự sống mong manh của một số cá con còn lại nơi trũng nước nhỏ kia. Không câu nệ bùn dơ, từng cái thau nhỏ đổ dần vào cái sô to rồi nhọc nhằn đem ra thả xuống dòng sông lớn cho cá tiếp tục sự sống mới, chắc chắn chúng được tự do thoải mái hơn nơi bến rộng sông dài. Ơn ấy, công ấy, cá biết đâu mà đền mà trả, chỉ mong rằng cá lo sống tốt cho đời của cá mà thôi. Chuyện kể là như thế !

Vấn đề là đi tìm sen trắng đem về trồng trong ao vườn chùa. Vâng ! vì rằng sen có nhiều đặc tính thanh cao, sự thanh cao ấy mà chư Phật và chư Thánh chúng thường ca ngợi tự ngàn xưa cho đến cả ngàn sau, cái đạo lý vô nhiễm vẫn trang nghiêm giữa cuộc đời tạp nhiễm. Trước đây, đức Phật đã cho chúng ta thấy rằng:

                                   “Như giữa đống rác nhớp
                                   Quăng bỏ trên đường lớn
                                   Chổ ấy hoa sen nở
                                   Thơm sạch, đẹp ý người”   PC.58.

Trồng sen là chọn lấy, khắc họa một biểu tượng cho cái sống thanh cao của tâm hồn, cái đẹp, cái thẩm mỹ, sự trong sáng vượt thoát không phải từ đầu non đỉnh núi, mà phải từ cõi lạc thú phàm tâm. Chính vì vậy, Đức Phật xác chứng qua lời dạy tiếp :

                                          “Cũng vậy, giữa quần sanh
                                          Uế nhiễm, mù, phàm tục
                                           Đệ tử bậc Chánh Giác
                                           Sáng ngời với tuệ trí.”    PC.59.

Ngoài sự ca ngợi của chư Phật, chư Thánh đệ tử và các bậc Thiền Tổ.v.v… Còn có sự ca ngợi trong kho tàng Ca dao, Dân ca Việt Nam đã được truyền tụng qua bao đời của Ông, Cha và rồi cũng sẽ truyền đi bất tận cho đến mai sau. Bởi :

                    “Trong đầm gì đẹp bằng sen
                    Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng
                    Nhụy vàng bông trắng lá xanh
                    Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”   ( Ca Dao VN).

Thanh cao quá!  như một câu kinh huyền nhiệm, như một tâm hồn không vết xước trầm luân. Nhưng có xa rời đâu cái “Thực-hữu” ở đây và bây giờ!

Chuyện của cái ao (đời) dù nay có bị lấp cạn đi, và cho dù nay nơi ấy đã không còn sen nữa, không thỏa mãn những ước mong tìm sen về trồng. Thế nhưng, điều gì lại giúp cho chúng ta có một cung nhịp mới, một cơ hội mới cho việc đi tìm một hướng đi trong muôn vàn hướng đi, một sự ẩn trú bình an trong muôn vàn ẩn trú. Đó là, chợt thấy sự sống mong manh của một ít cá còn lại nơi trũng nước cạn. Điều ấy, nếu không phải “thực” là gì? Thay vì ta phải thênh thang đi tìm một “chơn lý, lý tưởng” ảo hư mơ hồ vô vọng.

Nếu như ta cố son phấn cho việc làm, thì việc làm sẽ chỉ là son phấn, Đạo lý cuộc sống đâu nhất thiết phải cần đến chất liệu son phấn! Và trái lại, son phấn cũng không cần phải vẽ lên sắc màu đạo lý của bậc Thánh Hiền.

Đến đây, chúng ta còn nhớ đến một sự việc khác nữa, qua một câu chuyện sống đẹp được kể rằng: “… Có một cậu bé, một hôm dọc theo bờ biển, cậu nhặt từng con sao biển trên tay rồi lần lượt quăng từng con ra biển xa, cứ như thế, mỗi khi cậu có dịp ra bờ biển. Một lần nọ, có người trông thấy cậu làm như vậy và bảo với cậu rằng; trông cậu làm một việc không ích lợi gì cả, vì sau đó sóng biển cũng sẽ đưa chúng trở lên bãi cát khô. Thế nhưng, cậu bé kia trả lời rằng; ít ra cậu cũng giúp cho chúng có thêm một ít thời gian sống dưới biển…”

Như vậy, tất cả việc làm là cốt để phát sinh sự sống sao cho được tươi mát lành mạnh là cần, sự sống được nuôi dưỡng tốt bởi những chất liệu có ý thức, có thiết thực đạo lý, có nhân tính.v.v… Chính điều đó, ở đây và bây giờ là sự tồn tại thanh cao, sự hướng thượng trong sáng, sự an bình mầu nhiệm một cách nghiễm nhiên hơn bao giờ hết.

Vì vậy, một chiều bình an, không phải là một chiều chỉ cho khái niệm, không phải là cầu an lẫn tránh, không phải là một mơ hồ ý tưởng xa xôi, càng không phải là sự mệt mõi, chán chường trong bùn dục của thói đời. Nếu như những ý niệm hành động trên, thì khác gì một tâm hồn hoang mạc, cọc còi tư duy, mục nát với thời gian.

Trái lại, có một chiều thật sự tìm và trồng sen và thật sự có giúp cho bao nhiêu con cá nơi trũng nước cạn kia được tự do thong dong ngược xuôi nơi bến rộng sông dài. Điều ấy có khác gì đã và đang tưng bừng bởi những sắc hương hoa và lá của sen. Đi và tìm bao “kỳ hoa dị thảo”, thế nhưng trên vạn nẻo đời, ở đâu lại không có (hoa thơm cỏ lạ) vẫn nở muôn trùng trong ta và trong cả cuộc đời.

Tác bạch cảm niệm Vu lan


Khi mùa Vu Lan trở về, nơi nào có người con Phật, và nhất là trên mọi miền đất nước, những hình ảnh tự viện, tịnh xá, tịnh thất.v.v… đều khởi sắc một mùa Vu lan báo hiếu. Đối với những ai có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, tất cả đều có một cảm niệm chung, là nghĩ đến những phút giây chạnh lòng về công ơn trời biển của cha mẹ, âm thầm lắng nghe những tình tự nơi sâu kín của cõi lòng vô hạn, sự rung động ấy chính là Hiếu Tâm, Hiếu Hạnh.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
                              NAM MÔ DUYÊN KHỞI VU LAN ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ TÁT                       
KÍNH LẠY ĐỨC TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG.

Ngưỡng bái bạch Hòa Thượng chứng minh
Chư Tôn Thượng tọa, chư Đại Đức Tăng Ni chứng minh.

Hôm nay, tại đạo tràng Tịnh Xá An Lạc có tổ chức Lễ Hội Vu Lan, dưới sự chứng minh của Hòa Thượng Viện chủ cùng với sự chứng dự của Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni tại các Tự Viện, Tịnh Xá, Tịnh Thất lân cận đồng trở về góp phần cầu nguyện trong mùa Vu Lan.

Vào giờ nầy, chúng con xin được đại diện hàng Thiện Nam Tín Nữ Phật tử hiện diện, kính dâng lên lời tác bạch và có đôi dòng hoài niệm về ngày Vu Lan báo hiếu – Phật lịch 2557 – năm Quí Tỵ - 2013,

Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni, Vu Lan Thắng Hội, nay đã trở thành nguồn, thành suối, lan tỏa tươi mát diệu lý hài hòa khắp trong trời đất và muôn vật. Ngày đã khơi gợi TÂM HIẾU và HẠNH HIẾU, ánh lên nét đẹp đặc thù chứa đầy nghĩa sống tình người, và cũng đã thấm đẫm trong lòng dân tộc Việt tự ngàn xưa, một bản sắc văn hóa truyền thống Ân Tình và Đạo Nghĩa.

Chúng con được biết từ những lời Cadao, một kho tàng văn hóa dân gian, đã chắt lọc tinh chất đạo lý tình người, và đã được truyền tải từ muôn đời đến với những con cái đối với ơn sanh dưỡng, như:

“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao”

Và hơn thế nữa, khi chúng con đã thật sự có mặt trong cuộc sống, từ muôn ngã cuộc đời, ít nhiều chúng con cũng đã và đang nhận ra được từ phía tấm lòng cha mẹ đã dành cho chúng con, để chúng con thấy được công ơn trời biển như thế nào :
“Biển Đông có lúc đầy vơi
Chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng”

Chính vì vậy, trước đây, một lời dạy minh triết bất hủ của Đức Phật, đã được vị Đại Đế A Dục Vương vĩ đại trong lịch sử Ấn Độ, đã ấn chỉ và trân trọng ghi tạc vào bia đá, khi Đức Phật có lần nói với các thanh niên Licchavi như sau : “ Mẹ, cha và các vị Thầy cần phải được chăm sóc chu đáo, lòng từ bi phải được ban rải khắp chúng sanh, chơn lý phải được tuyên thuyết rộng rải cho mọi người… Đây là là những phẫm tính tự nhiên tự ngàn xưa, chúng là cho cuộc sống trường cữu và mọi người cần phải kính cẩn tôn thờ”

Từ những lời dạy trên, như một Thông Điệp Hiếu Hạnh vô song, đã được Đức Phật công bố vào thế gian. Vì vậy, tinh thần ngày Lễ Hội Vu Lan là ý thức giáo dục lòng nhân ái, khơi mở lòng thương độ lượng, bao dung từ con người đến các sinh loại. Đã được suy tiến trong mọi khía cạnh : Đạo Đức, Xã Hội, Gia Đình, lan tỏa thành mối quan hệ lành mạnh, tươi mát, hầu chuyển hóa khổ đau, kết nối yêu thương và an bình trong cuộc sống từ ngàn xưa cho đến ngàn sau.

Nay chúng con đã nhờ giáo nghĩa của Phật, qua Chư Tôn Đức Tăng Ni về thời gian và không gian là vô thường, mọi sự vật hiện tượng biến đổi, mà trong đó, con người luôn chịu sự chi phối bởi Sanh Già Bệnh Chết… Điều ấy, đã thôi thúc những người con có hiếu hạnh càng thực hiện bổn phận phụng dưỡng cha mẹ hơn bao giờ hết, vì biết rằng thời gian không hề đứng lại;   
               
“Ai níu nổi thời gian
Ai níu nổi bao giờ!
Con mỗi ngày một lớn
Mẹ cha mỗi ngày thêm già
Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn”.

Chúng con tự nhận biết rằng; không bao giờ có ai định liệu được sự sinh tồn của cha mẹ, cũng không ai mãi mãi luôn gần gũi cha mẹ, để hưởng những đặc ân tình cảm thiêng liêng từ cha mẹ. Mong sao cho cuộc hành trình ấy, không để lại một vết buồn thương, trầy sướt, tủi hận. Và một khi chúng con đã hiểu thêm lời Phật dạy về điều Thiện và điều Ác:

“Điều thiện tối cao
Không gì hơn bằng Hiếu
Điều ác cực ác
Không gì hơn Bất Hiếu”

Sự cực điểm của hai chiều xuôi ngược ấy, Đức Phật còn minh họa lên hình ảnh gần và xa, như:         

“ Rằng xa thật là xa
Người ta nói xa hơn
Là pháp của bậc thiện
Với pháp kẻ bất thiện
Thật xa, xa hơn nhiều”
                                                                                                                                 (Kinh (Tăng Chi I).

Kính bạch Chư Tôn Đức,
Cứ mỗi năm, khi đến mùa Vu Lan, mọi người con Phật đang rộn và hướng về phương trời chân lạc, là để được thực hiện tâm Hiếu-Hạnh. Đây là dịp nghĩ, nhắc nhớ ân nghĩa sâu đậm của cha mẹ, sự đánh động ghi dấu trong mỗi thời khắc của cuộc sống.

Khi mùa Vu Lan trở về, nơi nào có người con Phật, và nhất là trên mọi miền đất nước, những hình ảnh tự viện, tịnh xá, tịnh thất.v.v… đều khởi sắc một mùa Vu lan báo hiếu. Đối với những ai có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, tất cả đều có một cảm niệm chung, là nghĩ đến những phút giây chạnh lòng về công ơn trời biển của cha mẹ, âm thầm lắng nghe những tình tự nơi sâu kín của cõi lòng vô hạn, sự rung động ấy chính là Hiếu Tâm, Hiếu Hạnh :

“Mỗi đêm thắp ngọn đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”

Còn đối với những ai đã quy giới Tam Bảo, thì tất cả đều nói lên sự hưng phấn, hạnh phúc qua lời Phật dạy:

“Phụng dưỡng cha và mẹ
Là vận may tối thượng”.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ TÁT.

No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...