Saturday, August 22, 2020

Mặc Phương Tử 4 - Bài viết Theo mây đi cùng mây về - Tự tình giêng hai

 Theo mây đi cùng mây về - Tự tình giêng hai


Theo mây đi cùng mây về

1/- NHẬN DIỆN.

Điểm xuất phát từ Tp. Long Xuyên,  bây giờ đã hơn 20 giờ ngày 7.02al năm Giáp ngọ (2014), tổng số trong đoàn Tham quan và Cứu trợ trên dưới 150 người, trong đó có 10 vị thầy, thầy G. Tín là trưởng đoàn. Xe đến xa lộ Nam Saigon hướng thẳng cầu Phú Mỹ trong khu vực Quận 7, Tp. HCM, tiếp tục băng qua ngả tư Cát Lái giao lộ mới tiếp giáp đoạn đến cầu vượt sông Đồng Nai đến Thị Trấn Long Thành, hướng về Bình Sơn để trổ ra ngả tư Dầu Dây, rồi trực thẳng Long Khánh, Phan Thiết.

Dọc theo quốc lộ 1, cận Thị xã Phan Thiết, trông những vườn Thanh Long rực sáng bởi đèn chong để hấp thụ hoa, kích thích mỗi nhánh mỗi hoa, mỗi hoa là mỗi trái, đây là sự phát minh rất tình cờ của người nông dân bản xứ nơi ấy. Đến Phan Rí Cửa, trời đã tờ mờ rựng sáng, trời hồng lấp ló cuối biển xa, mọi hình ảnh mua bán, sinh hoạt đều bắt đầu cho một ngày mới, thế nhưng trong xe thì còn nghe im ỉm, bởi phần nhiều còn níu lại giấc điệp trong đêm.
Đã hơn 7 giờ sáng rồi, bãi biển Cà Ná hiện dần phía trước, đối diện là điểm dừng chân rộng thoáng, lịch sự, đó là Quán Quê Hương. Mọi việc buổi sáng đều xong, phần đông mọi người đã ngồi vào bàn để chuẩn bị lót dạ buổi sáng.
                                                                                                   Từ phía khán đài nhỏ vang ra những giọng trầm ấm truyền cảm, bởi những âm điệu tình tự, sắc màu quê hương. Không có sự kết thúc qua một định nghĩa nào về hai chữ quê hương, mà chỉ mang mang vô cùng trong muôn vàn ý tưởng của mỗi chúng ta. Lời nhạc có lúc lên vút cao, hòa tan trong sương khói mây ngàn gió núi, có lúc trải dài êm êm trầm buồn, hoài niệm nhớ thương da diết cả một thời dĩ vãng, để rồi thanh âm lẫn vào bao lớp bụi thời gian, thành một sức sống trong tim máu của từng lớp người đi qua, như những bản nhạc bất hủ mà chúng ta thường nghe, như ; Miền Trung quê hương tôi, Chuyến đò quê hương, Giả từ cố đô, Huế buồn, Thương về miền trungLá thư miền trung, Thương về xứ Nghệ, Một chút tâm tình người Hà tỉnh.v.v…

Tất cả đều toát ra một ý vị quê hương, không phải quê hương chỉ có miền trung, mà là cả ba miền đất nước. Vì đoàn đang đi trên phần đất miền trung, nên nói về quê hương miền trung. Nhưng thật ra, đâu cũng là máu thịt quê hương, đâu cũng là hơi thở nhịp tim của dân tộc.

Chúng ta có thể ngầm hiểu rằng : Quê hương là một dòng ký ức được thấm đẩm sâu sắc trong máu tim của mỗi con người, nó luôn gắn liền từ tuổi thơ và có khi suốt cả cuộc đời, từ những hình ảnh núi sông, biển đảo, ruộng vườn, bờ cau, liếp chuối, lũy tre, phong tục, tập quán lễ nghi, đạo lý, nếp sống cần cù, chân chất, hiền lành trong sáng.v.v… Cho dù mỗi lúc xã hội có thể đổi thay phần nào qua sự hối hả tất bật, thực dụng của con người. Nhưng khí chất, ý vị muôn thuở của quê hương, quốc túy, quốc hồn dân tộc có bao giờ phai nhạt đổi thay!

Đoàn bắt đầu hướng về Tp. Nha Trang, giả từ Quán Quê Hương, và cả tiếng hát quê hương, xe chạy được một đổi xa, băng ghế phía sau có người định cư ở nước ngoài, họ cùng tham gia trong đoàn theo cuộc hành trình, thoáng nghe họ tấm tắt, ca tụng, khâm khen không ngớt bao cái đẹp, cái sạch cái hay đủ điều nơi xứ sở họ đang định cư, nơi những quốc gia có nền công nghiệp phát triển, và không ít lời phê phán cách sinh hoạt ứng xử, từ việc ăn, việc ở đến việc sạch đẹp môi sinh môi trường.v.v… Họ luôn dùng ngôn ngữ Việt mà nói với nhau như vậy.

Không bảo vệ gì những điểm khuyết trên, thế nhưng có điều ta phải thấy rằng : không phải xã hội ta lúc nào cũng vậy, ở đâu cũng vây, người nào cũng vậy. Khi một phương hướng, hay một định hướng chưa thật sự khả thi, chưa thật sự nhận diện, thì điều ấy vẫn còn là một quá trình…

2/- BÀN ĂN CỦA QUÍ THẦY.

Từ điểm dừng chân tại bờ biển Cà Ná, còn nằm trong địa phận tỉnh Bình Thuận-Ninh Thuận, sau khi dùng sáng xong, đoàn tiếp tục cuộc hành trình hướng về Tp.Nha Trang, bấy giờ đã hơn 8g sáng. Tuy đã sáng rồi, nhưng suốt đêm qua mọi người hãy còn chập chờn trong giấc ngủ, nên xe chạy được một khoảng đường, phía sau nghe im lặng, thỉnh thoảng nghe tiếng ngái của một vài người có sức ngủ tốt.
Thành phố Nha Trang bây giờ sầm uất hơn xưa nhiều, có những công ty như vừa mới hoàn thành xong công trình, hoặc đã đi vào sinh hoat, những qui hoạch khu dân cư có nơi còn đang thi công, những con đường mới tráng nhựa thẳng tắp, quán xá người mua bán lao xao.v.v…

Đoàn xe thẳng đến quán chay trong khuôn viên chùa Long Sơn (Thích Ca Phật Đài, Nha Trang), nơi đây có tượng Phật an tọa uy nghi từ trên đồi cao nhìn xuống thành phố, như để quan sát, lắng nghe sự sinh hoạt của muôn người bằng một nguồn từ tâm bất tận, “cụ nhất thiết công đức, từ nhãn thị chúng sanh…” (Người có đầy đủ những công đức lành, nên thường lấy con mắt từ bi mà nhìn chúng sanh…)

Trời đã đứng bóng, chúng tôi bước nhanh vào quán, thấy bàn giữa phía trong như đã tươm tất hình thức, nên không ngần ngại ngồi vào, tất cả 9 vị thầy, chợt một cô từ bàn điều hành bước đến và nói với chúng tôi rằng; thưa quí thầy, bàn nầy là bàn ăn của quí thầy ở Saigon đã đặt trước, nghe vậy, nên cả chúng tôi phải vời qua bàn ở bên. Liền theo đó, vị thầy trong đoàn đã liên hệ trước đây với chủ quán, bước vào và xác định đây là quí thầy từ Long Xuyên đã đặt cách đây mấy hôm, bấy giờ chúng tôi lại phải vời qua trở lại.
Ngồi dùng bửa cơm trưa, mà thầm nghĩ rằng : nơi đây và bây giờ là “bàn ăn của quí thầy”, nhưng khi chúng tôi rời khỏi chỗ nầy, nếu có quí cô, quí ni ở đâu đó cũng có liên hệ đặt bàn, thì khi ấy nó sẽ là bàn ăn của của quí cô, quí ni, rồi đến lượt quí ông, quí bà hay một nhóm người nào đó cũng liên hệ như thế, thì bàn ăn ấy sẽ là của… như thế !...

Cứ như vậy mà “của” từng chập thời gian đi tới, và rồi sẽ qua đi, như để đánh dấu cột móc vô thường tạm bợ, của từng khoảnh khắc cuốn trôi lặng lẽ theo dòng đời, “của” nó không dừng lại cho ai, và cũng không bất cứ một ai luôn được dành riêng cho mình một hình thức sở hữu (danh hay sắc) tồn tại mãi bao giờ! Như hình ảnh “bàn ăn của quí thầy” vậy thôi …!

3.- TẮM BIỂN

 Mới hơn 4g sáng, tiếng gỏ cửa phòng từ phía bên ngoài của mấy vị thầy trẻ gọi mời đi tắm biển, tiếp theo là nghe tiếng lẹp xẹp của nhiều người đi về phía đầu cầu thang.

Nhìn qua cửa sổ, thấy từng tốp người hối hả đi ra hướng biển, trời còn sớm, nên biển vẫn còn im, những cơn gió vẫn nhịp nhàng qua những cành dừa nghiêng bóng, thỉnh thoảng có một vài lượng sóng con tạt vào bờ cát mịn, lố nhố những người lặn hụp, nhảy sóng, trường cát, trông ra vẻ thích thú, hào hứng lắm.
Chúng tôi hỏi : tắm biển chi sớm vậy ?

Mấy vị trả lời ngay! Tốt lắm; nào là để xả stress, sóng biển có tác tụng như là massage nhẹ, nước biển có khả năng cung cấp oxy cho cơ thể, tắm biển để được cải thiện các hoạt động của mạch máu, ổn định nhịp tim, giảm huyết áp khi bị cao, tắm biển làm cho các cơ bắp được khỏe, giảm đau nhức các khớp bị tê thấp,.v.v… những lợi ích ấy do tắm biển.

Nhìn chung, tất cả những tác dụng ấy nhằm giúp ích cho cơ thể vật chất, đồng thời ít nhiều liên hệ đến đời sống tinh thần trong xã hội, nhứt là giữa cuộc sống bộn bề hôm nay, trăm sự lo toan, trăm phần đối mặt, tất bật với bao chuyện áo cơm, nhà cửa, công danh sự nghiệp.

Thế nhưng, cuộc đời vốn là biển pháp mênh mông, tất cả từ nguồn tâm vô tận, mà các bậc thiện trí thức, các bậc Thánh đức, Hiền đức, cùng chư Phật, và Bồ tát đều tắm bằng ý thức để được giác ngộ, để được nhận ra sự vật hiện tượng “không ta, không của ta” để tâm được nhẹ nhàng cao trên trong sáng an vui của một tâm hồn.
Nếu như vị mặn của nước biển sẽ tạo ra nhiều năng lực cho cơ thể tiếp thu, để hóa giải những bịnh tật từ nơi thân cần phải được hóa giải, để đem lại cho một chiếc thân không bịnh. Cùng thế ấy, giáo pháp của Phật có năng lực giúp cho chúng ta tiêu trừ những ô uế nơi thân và tâm, không còn bị những trói buộc và phiền não, sạch bẩn bởi những tham-sân-si, không còn bị đọa lạc vào sự thống khổ. Đó chính là vị giải thoát.

Thiển nghĩ; không có bến hay bãi tắm nào đem lại hạnh phúc thật sự cho tự thân và tha nhân trong thế gian nầy, một khi chúng ta còn thấm mặn những bùn dục, những ý tưởng tầm cầu thường tình qua từng lớp sóng phàm tâm, cho dù có rắn khỏe thân thể nầy, nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn vẫn còn chứa đầy những bịnh tật, gầy guộc ốm đau giữa những người bịnh hoạn, ta sống bị bịnh hoạn.
Chúng tôi chợt nhớ đến lời Phật dạy đến với Bà La Môn Sagarava, như sau:

... “Chánh pháp là ao hồ
Giới là bến nuớc tắm
Không cấu uế, trong sạch
Được Thiện nhân tán thán.
Là chỗ bậc có trí
Thường tắm trừ uế tạp
Khi tay chân trong sạch,
Họ qua bờ bên kia.”
                                                                          Kinh Tương Ưng I.

Như vậy, sự tắm rửa của mọi sự tắm rửa bằng ý thức trong sáng, lành mạnh, đem lại bình an cho mình và người và cho cả cuộc đời, vẫn là quí hơn mọi sự tắm rửa, là vượt thoát mọi sự tắm rửa…

4.- DU THUYỀN HẢI ĐẢO.

Nắng đã rót vàng lên những cành dừa lả ngọn nghiêng mình bên bờ cát phẳng lì, hắt hiu những cơn gió mới mang về từ đỉnh núi xa, từ đại dương xanh biếc mù khơi, hơi biển và khí núi rừng hội tụ thanh trong tinh khôi thoáng đã lên màu thanh tân trời đất. Đoàn đã chuẩn bị đâu đó cho buổi sớm mai vừa xong, đến Bến cảng Cầu đá, tàu du lịch ra vào bến liên tục, khách du lịch chen chúc lên xuống đông đầy.

Cuộc du thuyền hải đảo bắt đầu, những con tàu rẽ sóng bạc trên mặt biển xanh, mỗi lúc tàu lẫn trong biển trời, xa khuất bến bờ, chỉ còn thấy màu mây khói trắng đục ở phía chân trời.
Bãi Sỏi là điểm dừng duy nhứt, nơi đây du khách ăn uống, giải trí, tắm cát, phơi nắng, hoặc nhìn ra xa biển trời cao rộng mà tư duy chiêm nghiệm.v.v… Tuy có sự ồn náo, nhưng những thanh âm dường như đã bị chìm vào giữa thinh không bao la, không đủ gây tiếng vang động giữa cõi vô cùng tận.

Đoàn tiếp tục cuộc hành trình ngang qua từng hòn còn lại như: Hòn Tằm, Hòn Mun, Hòn Rơm, Bãi Tranh.v.v… Giữa cảnh trời nước mênh mông, với cây cỏ um tùm, những lối mòn lạnh dấu hoang sương, những tảng đá rêu phong xanh hồn theo năm tháng, không một bóng người. Cảm tưởng như một thế giới kỳ tuyệt rất bình yên, như bặt đi những dấu vết ký ức thời gian, như chưa hề có một ý tưởng nào chạm đến từ thuở cõi nguyên sơ. Thời gian thoáng qua, bến cảng hiện ra dần, kết thúc chuyến du hành hải đảo.

Thế nhưng, phải đâu chừng ấy cuộc du hành! Một khi con người vẫn còn bôn ba ngược xuôi giữa muôn vạn nẻo đời gió bụi, lao xao của dòng tâm tưởng phàm tình, của bao bến đục trong sóng dựng đài mây nhơn ngã. Ta đâu có nghĩ rằng: du thuyền hải đảo là để lắng nghe, tận hưởng hơi thở của khí đất trời bình yên, để hòa vào tận nguồn sâu thẳm của tâm hồn, để toát ra bao ý vị muôn trùng diệu lạc.

Du thuyền hải đảo phải đâu chỉ thoáng chốc thời gian, mà chính là sự quán chiếu từng phút giây hiện tại, biết nhận diện nơi chính mình, năng lực ý thức giác ngộ của mình cũng chính là năng lực của Tam bảo. trở về nương tựa từng niệm tỉnh giác trong mỗi phút giây, là biết trở về với hải đảo tự thân, Đức Phật dạy:

Hãy tự làm hòn đảo
Tinh cần gấp, sáng suốt
Trừ cấu uế, thanh tịnh
Không trở lại sanh già.” PC.238.

5.- LÀNG CHÀI.

Đoàn không ghé lại Làng Chài, chỉ đi ngang và người hướng dẫn giới thiệu tóm tắt cho biết sự hình thành, sự hoạt động của nó, ánh nắng ban trưa khá gắt, vả lại trong đoàn có nhiều thầy và phật tử đều dùng chay, nên thấy không cần thiết phải ghé vào, mà chỉ nghe người giới thiệu là đủ rồi!

Được biết Làng Chài nầy nằm trong cụm đảo có hồ cá Trí Nguyên và hồ cá Trí Nguyên nằm trên hòn đảo Bồng Nguyên. Cư dân của Làng Chài không nhiều, chỉ trên dưới 50 hộ dân, và cũng từ các Tỉnh miền ngoài vào lập nghiệp, như: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.v.v… sau đó dùng tàu, thuyền đánh bắt cá, cũng như các loài hải sản và nuôi cá bè.

Nơi đây, du khách đến có thể thưởng thức hương vị của các món hải sản đã sẵn có trong những ô bè, trong ấy có đủ các loại tôm, cá, mực, ốc,v,v,,, chế biến tại chỗ. Những loại ấy phải bỏ thời gian đi đánh bắt, lưới, hoặc câu ngoài xa rồi đem về thả vào bè, nhằm phục vụ cho khách du lịch mỗi khi tham quan đến Nha Trang.

Nói về có được những loại hải sản ấy, người dân Làng Chài cũng phải đổi lấy bao nhiêu công sức ngày đêm, chống chỏi với bao mưa nắng bảo bùng, với bao gió sớm sương khuya, với bao rét buốt lạnh lùng, với bao nóng bức gian nan, mới có được ít nhiều những thành quả, để cho du khách được thỏa thích ngon miệng, đánh bắt, lưới, câu của người Làng Chài là để có sanh ra của cải, tài sản, lo cho cuộc sống  tự thân và gia đình, đó là công việc, phận sự của người Làng Chài.

Thế nhưng đối với những người đệ tử Phật, chúng ta cũng sẽ phải làm một cách giống như thế. Chúng ta sẽ rõ biết, nhận diện các pháp thích hợp với lẽ chánh thiện, và từ bỏ những điều bất thiện, không ích lợi, không được sự chấp nhận bởi người có trí, chúng ta sẽ vây lưới, câu lấy những thiện sự, đem về rọng chứa trong tâm, để được sanh lợi là công đức, phước lành vào trong cuộc sống và sự sống an bình cho mọi người. Gây tạo niềm tin chánh pháp, hướng tâm chánh pháp, để hưởng được cảnh giới lành an vui từ nơi phước lực.
Nếu như người dân Làng Chài nổ lực cần mẫn để có được tài sản, sự sống cho thân, thì chúng ta cũng phải nổ lực cần mẫn để có được các pháp lành, làm đạo lộ siêu hóa cho tâm, và cho cả mọi người.

6/- DỪNG CHÂN BẾN LỘI

                                  Khánh Vĩnh, Khánh Hòa.
  
Núi đã lở Giá băng hồn cổ thụ
Cõi hoang sơ, nát lệ mộng mây ngàn!
Đây Bến Lội đìu hiu trời lữ thứ,
Ta lặng nhìn sương khói bóng ngày tan.
Dòng suối nhỏ không đủ người soi bóng
Vực đá hờn không một vết rêu phong.
Giữa hoang mạc tiếng chim còn lạc giọng,
Để nhớ về thuở rừng núi mênh mông.
Dáng đèo nghiêng, dốc tuông ngàn mộng thắm
Đỉnh xa trơ cháy xám gốc cây già.
Chạnh lòng ta bao nỗi niềm thăm thẳm,
Buồn như chiều lên nhánh khói lam xa.
Đây Bến Lội,
Hay bến lòng dặm khách?
Chút sắc hương còn một nhánh lan rừng,
Từ dưỡng khí nơi đất trời tinh sạch,
Sao nghe lòng dâng một nỗi bâng khuâng! 

7/- XE QUA ĐÈO.
  
Đã gần 1 giờ, đoàn dừng chân tại điểm dừng Bến Lội, nơi giao điểm giữa Diên Khánh và Khánh Vĩnh thuộc tỉnh Khánh Hòa. Mùa nầy (giữa xuân, tháng 2 al) dòng suối Bến Lội gần như trơ đáy sâu hỏm, chỉ còn thấy phía dưới rất mỏng manh một dòng nước ngoằn ngẻo, nặng nề trôi về phía hạ nguồn, thỉnh thoảng lại nghe tiếng chim lẽ loi từ những đỉnh ngàn xa đâu vọng lại, mây trắng cũng buồn tênh khi ngang qua cảnh rừng núi hoang sơ.

Ngoài việc giải khát và vệ sinh trong đoàn ra, các tài xế cần phải kiểm tra lại hệ thống xe với những điều cần thiết, để chuẩn bị việc lên đẻo cho được an toàn, vì đây là một trong những đường đèo khá dài và có chiều cao nhứt trong khu vực phía Nam của đất nước ta. Đó là đèo Khánh Vĩnh hay còn gọi là Khánh Lê.

Theo thông tin du lịch cảnh quan, chúng ta được biết : từ Nha Trang, tỉnh lộ 652 nối đoạn cuối 723 tiếp với Huyện Lạc Dương thuộc tỉnh Lâm Đồng, Đà Lạt (Cao Nguyên Lâm Viên). Thay vì trước đây, từ Nha Trang phải trở vào Phan Rang rồi đi QL 27 lên đèo Ngoạn Mục (Xông Pha) đến Đơn Dương, tiếp đó mới lên đèo Preen Đà Lạt. Thì nay, từ Tp. Nha Trang trực tuyến đến Ngả ba Thành (H. Diên Khánh) dọc theo dòng sông Cái rồi tiếp đến H. Khánh Vĩnh, hướng theo đoạn đường nầy có khoảng 139 – 140km, và đoạn đèo có khoảng 33km, đỉnh cao của đoạn đèo nầy là 1700m. Đỉnh núi cao nhứt của đoạn đèo nầy là núi Bi Đoup còn gọi là núi Hòn Giao, cao 2287m, đỉnh núi nầy cũng là ranh giới giữa tỉnh Khánh Hòa và tỉnh Lâm Đồng.

Tuyến đường nầy còn được trong giới du lịch khai sinh ra cái tên thật là bát ngát thơ và mộng “cung đường nối Biển và Hoa” và thật sự đúng như tên đã gọi, vì từ biển tiếp đến bạt ngàn rừng núi, thông và hoa, mây trắng thắt lưng chừng rừng xanh thẳm biếc, sương khói đục nhòa lan man khỏa lên màu nhân ảnh, tạo nên sự đắm say, vọng tìm của những khách lãng du, như những cánh chim giang hồ chưa mỏi cánh.

Cung đường có lúc gấp khúc co quanh, trông rất lãng mạn cho những tâm hồn thong dong tiêu sái, nhưng cũng không ít nguy hiểm cho những ai lơ đễnh qua cuộc rong chơi, càng chơi vơi hùng tráng kiêu sa phía trên cao, thì càng hiểm nguy khổ nạn, bởi những truông vực thăm thẳm hút tận đáy sâu, phía bên trên như thông lộ nối muôn màu ngàn hoa mộng, phía bên dưới tưởng chừng như tuyệt lộ phong trần.
Đã hơn 2 giờ đồng hồ trôi đi, trông chiếc xe nặng nề lầm lì leo đèo với vận tốc 40-50km giờ, những vuôn rẫy xanh màu, những lồng lưới các loại hoa hiện dần lên phía trước, khí trời nghe mát dịu, như báo hiệu đoàn đã đến phương trời Đà lạt mộng và thơ, bây giờ là 12 giờ kém.

Đến đây, ta có thể nghĩ rằng: đời như một chuyến xe thời gian ngược xuôi đưa ta đi về muôn ngả, mà mỗi người ai cũng phải tự chọn cho mình một trong những nẻo đi về. Có những con đường đèo qua từng kiếp tử sanh, cái dốc cao danh lợi, giàu sang hay cái truông vực hiểm nguy, nghèo khó khổ đau. Có những khúc quanh, người ta sẽ được cơ hội thăng hoa thời vận tôn vinh, lại có những khúc quanh, người ta phải bị khốn quẩn hoang tiêu tài sản cửa nhà. Đó là những khúc đoạn đời qua của nhân thế. Cái thăm thẳm cao rộng hùng tráng bên trên là con đường, là tâm hồn thanh thiện, nhưng những vực đáy hiểm sâu, là con đường, là một tâm hồn đọa xứ, là thế giới khổ đau, lạc thú thường tình.

Ai rồi cũng băng qua những khúc đoạn tử sanh, hạnh phúc và khổ đau, bình an và đày đọa.v.v… nào phải từ đâu đến, chính do ta tự đến những cung đường, hạnh phúc bình an và cao rộng luôn ở phía bên trên, đau khổ đọa dày thấp kém có bao giờ rời xa phía dưới…
Và đời như chuyến xe thời gian, đưa ta đến đi ngược xuôi bao nẻo khúc đoạn đường, dốc đèo, truông hiểm, để ta chiêm nghiệm và cảm nhận từ đây và bây giờ.

8/- BIỂN, CẢNH GIÁC CHÁY RỪNG.
  
Dọc theo những tuyến quốc lộ hay tỉnh lộ, và kể cả những khu vực được cho là vùng sinh thái thiên nhiên, hay bất cứ một tài sản nào từ thiên nhiên mà những người lảnh đạo đất nước cần phải quyết tâm gìn giữ và bảo tồn. Và sự quyết tâm ấy phải được nghiêm túc cao từ phía các bậc bề trên, cho đến mọi từng lớp trong cộng đồng của một quốc gia.

Nếu khu vực đồng bằng Miền Đông, Tây Nam bộ có rừng Ngập Mặn Cần giờ, Cà Mau có rừng tràm U Minh Thượng, U Minh Hạ, ở An giang có rừng tràm Trà Sư, ở vùng Đồng Tháp có Vườn quốc gia Tràm Chim, Long An có rừng ngập ngọt.v.v…tất cả đều phải truyền thông và thực thi  kế hoạch bảo vệ. Bởi, đó được xem là tài sản quí hiếm đã có được từ thiên nhiên của đất trời muôn thuở.
Trên chiếc xe hướng về đèo Khánh Vĩnh, thoan thoát lướt qua những đồi rừng đã được tái tạo lại từ những cây tràm, cây dầu, cây sao… còn lẫn với một vài cụm rừng chồi hoang sơ, mặc dầu nhìn về phía dãy núi xa có những khu rừng trông còn nguyên sơ tự nhiên, ẩn hiện với núi non xanh biếc bạt ngàn hùng vĩ. Bất chợt trông bên đường, có một biển báo hình chữ nhựt “…tích cực phòng chống cháy rừng” được dựng trên phần đất của khu rừng đã bị cháy trồi lên những gốc đen trơ trọi. Phải chăng, có sự sơ ý hay chưa kịp di vời biển báo đến chỗ rừng còn xanh?!

Nếu rừng nguyên sinh bị cháy, bị cưa đốn, tàn phá, nó sẽ làm tổn giảm tài sản danh mộc quí hiếm của quốc gia, mà còn làm mất đi sự thăng bằng, ảnh hưởng đến hệ sinh thái môi sinh và môi trường do từ những biến động của thiên tai, sự sống của các loài động vật và con người sẽ không ít điều nguy hại…

Điều cần nói ở đây, không phải chỉ khắc phục những điều phải khắc phục như chỉ là hành động khắc phục. Mà là phải từ sự nhận biết, ý thức đích thực qua giáo dục toàn diện tự tính của con người trong mọi từng lớp xã hội, chính nơi đây không cần phải có sự khắc phục nào!

Nghĩ một cách khác, ta có thể thấy và nhận ra rằng: nếu muốn có và thực hiện được một đời sống thịnh vượng, an bình từ trong gia đình đến xã hội, thì tưởng cũng nên cần đến con người có mẫu mực, đức hạnh và trí tuệ. Chính nó sẽ tạo ra vô số hạt nhân tốt đẹp và khỏe mạnh cho một vùng trời bóng mát và mầu mỡ. Và trái lại, đất sẽ bị vỡ lì đi làm khô cằn, cạn kiệt những dưỡng chất, khó và rất khiêm tốn sự có mặt cho những tàng đại thụ (Đức Trí).

Nói một cách khác nữa, nếu tự thân đã bị đốt cháy bởi những ý niệm ác quấy, thiêu ruội những năng lực hiền thiện, ngòi mọng của những đức nhân và đức trí, mà lại khuyên và hướng dẫn người phải như thế nầy hoặc như thế kia. Thì chẳng khác nào như hình thức biển báo “…phòng chống cháy rừng” đã được dựng trên khu đất rừng đã bị cháy.
                                                   KhánhVĩnh,NhaTrang, 10.03.2014.

Tự tình giêng-hai

Sau những ngày lễ hội Tết Cổ Truyền của Dân tộc, bao ước mơ của con người như đã xanh theo ngàn nụ biếc và sắc màu hoa cỏ, hương xuân còn níu lại đâu đó giữa bao lớp sóng bụi thời gian, nhưng dòng thời gian cứ lầm lũi trôi chảy mãi đến muôn bến đời lao xao cát bụi, nắng và gió sương.

“Tháng Giêng có làn mây trắng
Sương đọng giọt giọt miên man
Ráng chiều đợi mùa bằng lăng
Bâng khuâng ngày cũ chưa tàn.”

Có những bước đi vẫn miên man về phía trước, mà bao hoài niệm hôm nào còn vời vợi dấu thời gian như thi sĩ Hồ Dzếnh đã có lần nói lên niềm tâm cảm của mình ;

“Chân đi đếm tiếng chuông chùa
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về.”

Mưa bụi tháng Giêng-Hai lất phất như sương như bụi lên mùa viễn xứ, mây trắng chốn quê nhà còn đọng trong sắc nắng bến chiều xa, đâu những cánh diều no gió ước mơ xanh, đâu những luống cải trổ ngồng vàng bay bay gởi hương trong ngàn gió chiều cho thơm trời quê mẹ.v.v... 
Những bao đợi chờ, những bao hò hẹn, những đăm chiêu đầy hướng vọng xa xôi, những nỗi vui buồn say khướt chìm quên trong chén rượu tàn đông... Để rồi nếu có cố quên đi cho bao cơn mõi mòn lịm dần bên bờ mộng-thực.

“Quên đi toan tính đời thường
Giêng-Hai bãng lãng khói sương tự tình”

Vẫn biết rằng mọi sự việc cứ như thế mà đến, cứ như thế mà đi, và cái còn ở lại chính là những nỗi niềm nhân thế, nó không ngoài một thân phận của con người, vẫn đến đi, loay hoay chừng ấy bao nỗi cơ hồ nơi cuộc sống. hay rồi dong ruỗi trên bước ngược xuôi, con người còn thấy có chút gì đó trong sự sống, sự tồn tại nơi chính mình và ngay bây giờ;

“Thuyền chở trăng xưa về bến cũ
Hay mãi rong chơi trăm ngã sông ?
Đêm nay có cánh hồng chợt nở
Lả xuống tim người, vay chút hương !”

Nhưng không đâu, trong đời vẫn còn có một điều ở trong ta, trong mọi người, chỉ khi nào tự ta đánh mất đó thôi ! Điều ấy, chính là niềm tin chân thật, hướng thượng, và kiên trú, niềm tin và năng lực giúp cho chúng ta đến để vượt qua, đến để bỏ lại, đến là để kết thúc cuộc trở về, và đến là để thấy, nhận diện  ngay bây giờ

“Em có hay, chiếc lá thức trên cành
Cây chuyển mạch, dòng đời thay sắc áo
Hoa đương nụ dưới ngàn sương huyền ảo
Cánh chim về chở trĩu ước mơ xanh”

Những hạt sương, hạt bụi bên trời, tiếng chim thức trên cành, chiếc lá nõn xanh thắm dần lên sắc màu dâu bể, và muôn trùng màu hoa hương cỏ, phải chăng đây là một diễn trình cho ta thấy biết để cảm nhận đâu là mộng-thực, rồi cứ ở đây, nơi chốn thế gian nầy, mà nhận lấy sự bình an, hạnh phúc, hay đoạ lạc khổ đau, thong thả bình dị, hay bị cột trói hành phạt.v.v... 

Những ngày Lễ Hội đầu năm, nay đã và đang lần lượt đi qua, mùa Giêng-Hai cũng đương chuyển mạch theo dòng thời gian, như giục giã, như thông báo sắp đến và sắp qua những trạm ga đời, để rồi tiếp nữa ta phải nghĩ gì, làm gì... !? Cầu An, và chúc tụng đầu năm, cầu nguyện qua lời Kinh tụng, sự sinh hoạt vào lễ hội Rằm Tháng Giêng, lễ hội Quán Thế Âm.v.v... Những hình ảnh ấy mang đậm nét văn hoá tâm linh, phần đông người Việt, người Hoa cũng đều biết đến Chùa, Đình, Đền, các Tôn miếu để cầu nguyện cho những ước mơ, những cảm thọ hạnh phúc an vui, và quên đi những nỗi buồn lo sầu muộn, bỏ lại phía sau bao những tháng ngày của năm cũ. 

Tuy nhiên, cũng hoà theo những truyền thống phong tục, tập quán ngàn đời của Dân tộc, thì trong thời gian Giêng-Hai còn có những Lễ Hội mang tính nhân gian, và tuỳ theo mỗi khu vực, miền, mỗi địa phương khác nhau, như; miền Bắc có Lễ hội Đống Đa, lễ hội Chùa Hương, Lễ hội Cổ Loa, Lễ hội Lim, Lễ hội Yên Tử.v.v... Miền Trung có lễ hội Cầu Ngư.v.v... Miền Nam có Lễ hội Chùa Núi Bà Đen.v.v...
Tiếp theo nữa, có Lễ Hội Vía Bồ Tát Quán Thế Âm đến khắp chúng sanh nói chung, và cho những ai có lòng kính tin nơi hạnh nguyện của Ngài nói riêng. Vì nguyện lực hiện hoá đức tánh Từ Bi mầu nhiệm vô biên thân vào nơi thế giới ta bà nầy, cùng với tinh thần vô uý độ tha, luôn lắng nghe, luôn thấy biết : “Từ nhãn thị chúng sanh” (Mắt thương nhìn đời).
Không ngoài nguyện lực của chư Phật tiếp độ chúng sanh, thể hiện tinh thần tích cực triết lý nhân sinh với sự hoạt dụng “Thiên thủ thiên nhãn” (Ngàn mắt ngàn tay), với bao ngàn việc, ngàn thấy biết trong cõi đời qua vô vàn âm thanh như một đại hoà tấu mầu nhiệm của vũ trụ vỗ lên ngay trong muôn vàn cuộc sống và sự sống của chúng sanh, như lời ca ngợi tán dương;

“Quán Âm Bồ Tát diệu nan thù
Thanh tịnh trang nghiêm luỵ kiếp tu
Thiên sứ hữu cầu, thiên sứ ứng
Khổ hải thường tác độ nhơn châu”

(Với công hạnh và thù thắng mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, do nhiều đời kiếp chuyên trì công phu tu tập, và như vị thiên sứ, có cầu có ứng hiện hoá tiếp độ, giải trừ những khổ ách, đó là hạnh nguyện của Bồ Tát nơi cõi ta bà uế trược nầy.)
Đồng thời, trong thời gian nầy cũng là mùa tưởng niệm Tổ Sư Minh Đăng Quang vắng bóng, vị Tổ sư khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ (Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Việt Nam) từ những năm đầu thập niên 1940 cho đến đầu thập niên 1950. Tổ sư đã vắng bóng vào ngày mùng 01 tháng 02 âm lịch năm Giáp Ngọ (1954) cho đến nay. Sự tiếp thọ ân đức và ân pháp của Tổ sư cũng chính là tinh hoa chất liệu dinh dưỡng lớn mạnh Pháp Thân đối với Giáo lý của chư Phật và chư Tổ hơn bao giờ hết đối với hàng đệ tử xuất gia và tại gia, dù cho ngàn xưa hay đến cả ngàn sau.

Như vậi, mùa Giêng-Hai, qua đó có những Lễ hội, phong tục, tập quán lành mạnh được tôn trọng và duy trì, là mùa của bao hướng vọng, ước mơ, tình tự, của những hẹn hò, chờ đợi, kiếm tìm niềm vui hướng về miền chân lạc, dù chỉ là khoảnh khắc thời gian sau những ngày tháng vật vã với cuộc sống áo cơm, với bao nỗi lo toan và bao trang trải giữa đời thường.

Sự việc ấy, nay đã trở thành những truyền thống tốt đẹp, một nếp nghĩ, một sức sống đạo đức lành mạnh trong xã hội ngàn đời của quê hương Lạc Việt, nhờ có sự tưới tẩm từ ý thức giáo dục đạo đức trong cuộc sống trước đây, và cũng để tồn tại phát triển nét đẹp văn hoá ngàn đời của Dân tộc cho đến tận bây giờ.

Song song với những điều ấy, Đạo Phật đã có mặt, đã hoà nhập trong cộng đồng Tộc Việt, và đã nhanh chóng thổi vào nguồn sinh khí đặc thù tính chất Bi-Trí-Dũng của Đạo Phật, đã góp phần tạo nên một sinh lộ giữa cõi tử sinh, và nơi chốn quê hương ngàn đời đã phải gánh chịu không ít những điều khổ luỵ đau thương từ nhiều nguyên nhân, từ nhiều phía ác kiến tiêu cực của những thế kỷ, thời đại xã hội.
Do đó, con đường siêu hoá của Đạo Phật nhằm giúp cho con người nhận biết để đến mục tiêu giác ngộ, thấy rõ bản chất của mọi sự vật hiện tượng, các pháp nhân duyên qua tiến trình sinh-hoá-tiêu-tàn. Nhận thức điều Thiện ác, Nhân quả mà hướng tâm linh đến miền chân lạc để không còn khổ đau. Được sự gia hộ từ những nguyện lực của Chư Phật, chư Bồ tát, chư Thánh Tổ, các bậc tiền Hiền.v.v... Để có được niềm kính tin và an trú nơi chánh pháp, có được sự học hiểu và tu tập theo giáo lý của bậc giác ngộ, có thực hành nhiều về những thiện pháp, và có nhiều phước thiện , cũng như được tăng trưởng nhiều công đức lành nơi cuộc sống nầy.

Tự Tình Giêng-Hai, không những chỉ dành cho những Lễ hội truyền thống, những phong tục, tập quánqua những ước mơ cầu mong cho lảnh vực đời thường, mà còn cho cả về mặt đạo đức tâm linh, cốt đem lại sự bình an cho người hiện tiền biết đuọc giá trị siêu hoá đạo đức, chuyển hoá thân tâm, từ bỏ ác nghiệp, thành tựu thiện nghiệp, sống an lạc, hạnh phúc cho đời nầy và đời sau.


_Chùa Kỳ Viên_ 

No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...