NHỮNG KHẮC KHOẢI TRONG
"thơ TRẦN THIỆN HIỆP"
HOÀNG VŨ ĐÔNG
SƠN
Vào một ngày mưa gió, tôi đã đọc 'Thơ Trần
Thiện Hiệp'. bài mở đầu như một tuyên ngôn, một mộng ước của tất cả
những nhà thơ từ ngàn xưa cho đến ngàn sau:
giữa lũng mây chiều một cánh chim
đường bay thanh thản trong im lìm
dặm trời dặm đất đêm
nhòa xóa
còn mãi đường chim ở đáy tim
hiểu nghĩa chim trời với tự do
đường chim không vẽ trước bao giờ
hướng bay cành đậu từ
tim định
ngang dọc đường chim nay vẫn
thơ
(ĐƯỜNG CHIM)
Vẫn là bài thơ 7 chữ, 8 câu; Trần Thiện
Hiệp cứ ngắt ra, cứ lừ lừ xuống hàng theo tiết tấu và nhịp điệu rất bình thản;
nên thi tứ trở thành sung mãn đến vô cùng. Ước
vọng càng lớn, mong đợi càng nhiều; thì đớn đau cũng lắm khi đối diện với thực
tại hỗn độn. Đành buông xuôi:
Thôi thì hư thực xá chi
Lấy thơ trải mộng bước đi phiêu bồng
đành cam chịu:
Phù du còn lại nửa đời
Vẫn chân bám đất vẫn trời vô biên
(CÒN BƯỚC PHÙ DU)
Cuộc sống đòi hỏi phải đi, phải bước;
dù muốn hay không:
trong chấp nhận và ngợi ca cuộc đời
lẫn lộn buồn vui
với tấu khúc thăng trầm của rừng xanh biển cả
tôi làm thơ cho vui
tôi làm thơ cho tôi
trên con đường hồng trần ta đi
(ĐƯỜNG HỒNG TRẦN)
Nhìn thiên tướng, Trần Thiện Hiệp tự vấn:
nghiêng-đời-nửa-bóng tìm ta mãi
truy vấn càn khôn một nỗi mình
(NHẬT THỰC)
Ở đỉnh cao của mộng ước, thi nhân mong:
Rồi đây có những ngày hạnh ngộ
Lộc đơm cành hoa nở rộ trần gian
Thi nhân ước ao mà cứ như thực:
Cõi sinh diệt đời đời thơ lồng lộng
Nhật nguyệt tròn-vòng-nối khúc thiên ca
(THƠ Ở BUỔI SÁNG TRÊN ĐỒI)
Nghĩ mãi về thân phận long đong của mình, Trần
Thiện Hiệp tự trào phúng ,thể nhẹ nhàng:
Mỗi hạt sương một dòng thơ
Sương rơi vỡ vụn, thơ bay tuyệt vời
Tôi ngồi cười cái thằng tôi
D94 rơi chẳng vỡ, đã trôi chẳng chìm
Phù sinh thắp đuốc soi tìm
Niết bàn hư vô, thiên đàng viễn mơ
Đuốc tàn còn lại cõi thơ
Lẫn trong mộng mị bãi bờ thực hư
(DÃ TRÀNG)
Với quỉ thần, Khổng Tử bảo: "Kính
nhi viễn chi".
Với sinh tử, Phật Thích ca không chấp nhận 'thánh
hóa nhân vật, thai hoá siêu nhiên'. Nên, không bàn đến kiếp trước, đời
sau. Chỉ có sự hiện hữu của khổ đau trên trần thế là hiện thực. Trần Thiện
Hiệp sống mấy chục năm ở xứ thực dụng, chắc chẳng bao giờ anh mong mai kia mốt
nọ, vào chiếm chỗ tốt nhất ở Niết Bàn. Anh chỉ ước ao trong bài thơ làm
[vào] tháng 4/ 2000:
nếu như có một kiếp sau
tôi lại mong được là thi sĩ
để tiếp tục làm thơ kêu gọi lòng người
mở cửa công bằng bác ái
không còn hận thù chiến tranh tàn hại
(NẾU CÓ MỘT KIẾP SAU)
Một người vừa qua binh lửa, nhưng không phải tù
đày; [mà] đang sống trong cảnh đa phương tiện, lại buồn vì cô đơn như cố
thi sĩ Đông Hồ Lạc-Giữa-Kinh-Thành:
"Đêm dài dằng dặc âm thầm
Gối đầu hoang đảo, người nằm cô đơn"
(thơ ĐÔNG HỒ)
Người xưa, cố thi sĩ Đông Hồ cô đơn thật hay cô
đơn làm dáng ở cảnh: "Thiên nhiên hạ thùy nhân "hữu'thức
quân"? Trần Thiện Hiệp bây giờ đâu có ở cảnh: "Mạc
sầu tiêu lộ vô tri kỷ".
Gia đình anh hạnh phúc, con cái phương trưởng
và thành công ngoài dự tưởng. Người bạn đời của anh, chị Lệ Hiền [là] 'cô gái Bắc
Kỳ nho nhỏ ngày xưa' đã thuộc lầu lầu thơ Trần Thiện Hiệp khi [thơ] chưa ráo mực
-- và diễn ngâm 'ngay tút-suỵt' . (toute de suite).
Ở điểm này, không biết bà Linh Phượng có làm được cho ông Đông Hồ; như Lệ
Hiền đã và đang làm cho Trần Thiện Hiệp? Phải chăng; trong cảnh bao la của xứ
người:
"Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn"
(thơ XUÂN DIỆU)
Trần Thiện Hiệp cũng có bài lục ngôn chơi vơi,
nghiêng nghiêng như sắp đổ:
Đêm về hoang vu chiêm bao
Du ta lối xưa phương nào
Mờ nhòa màn sương giăng cáo
Say hương nụ môi anh đào
Tóc mai gợi buồn muôn phương
Mắt em xa xôi hoang đường
Áo hoa tà bay trong sương
Lời thơ Liêu trai đêm trường
Ấm êm em trao vòng tay
Ta nghe thiên thu tình đầy
Lửa hồng chơi vơi men cay
Chắt chiu niềm vui phương này
(HOANG VU)
Ngậm ngùi vì tha hương cho mình và cho anh em bầu
bạn cùng cảnh ngộ, thật bi thiết:
Bây giờ trôi dạt nơi đây
Nhìn thu lá đổ lòng đầy nỗi ta
Nỗi ta trôi với nỗi nhà
Nỗi non nước ấy đã xa nghìn trùng
(LỜI EM VẪN Ở LÒNG NÀY)
Tôi yêu kính 'Kinh thi Việt nam'+ 'thơ Lục
bát' thuần Việt của bất cứ thi nhân nào. Nên tôi thích những bài thơ
6-8 của Trần Thiện Hiệp nhẹ nhàng, ấm áp cùng với 'sự ngắt nhịp giùm ngâm sĩ' ,
ở những câu:
. mùa đông tuyết
trắng đồi nương .....
. sang xuân nặng trải
đôi bờ ......
. hạ hồng mây
tím bay ngang .....
.vào thu hoa cúc trổ bông
(BỐN MÙA EM MONG)
Khi Nguyễn Công Trứ còn trong vòng cương tỏa của lợi,
danh ở Bắc, ở Trung, ở Nam; hay "Lúc bình tây
cờ đại tướng" mãi tận Cao Miên? Tướng công nhìn thiên tượng
cũng xót xa phận mình:
"Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười"
(thơ NGUYỄN CÔNG TRỨ)
Trời vào thu, Trần Thiện Hiệp có những nuối tiếc
rất đơn sơ, vì đã là "khách của quê mình" -- và đang ở
"quán trọ" quê người. Hoàn toàn lực bất tòng tâm.
Nghiệt ngã quá :
Mốt mai rồi lá vèo bay
Để rừng hiu quạnh với ngày quạnh hiu
Để em lòng luống trăm chiều
Với thu se lạnh đìu hiu phương này
Để đêm khơi lửa tàn bay
Bóng nghiêng với bóng vai gầy hoang vu
Để tôi lỡ vụng đường tu
Cũng buồn theo lá mùa thu áu vàng
Ru em giấc ngủ muộn màng
Mưa khuya thánh thót bên hàng hiên rơi
Nghe trong vần chuyển đất trời
Có tôi hạt bụi giữa đời phù du.
(THU)
Qua cơn mộng dữ, sự quật khởi lại có
trong 'Thơ Trần Thiện Hiệp' mang hơi hướng của sư Mãn Giác:
"Mại vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"
Khi thiên địa nhân tương hội:
Vũng nước đóng băng. Trăng chết lạnh
Vũng hồn trăng lạnh cũng thành băng
Chợt đâu tiếng sói gào trăng muộn
Vang dội rừng sâu. Động ánh trăng
(RỪNG TRĂNG)
Có lẽ tất cả những người phải lìa xa quê hương vì
bất cứ lý do gì đều có chung nhau một nỗi nhớ khôn nguôi. Nhớ vô cùng những
đường xưa lối cũ, có vui buồn đầy ắp:
Đường lung linh ảo giác
Dẫn đưa về lối xưa
Có ve sầu trỗi nhạc
Lẫn sáo diều sớm trưa
có đong đưa nỗi nhớ:
Con đường từ luân lạc
Hai mươi năm tàn phai
Sầu sóng dâng Đông Hải
Đêm nghe tiếng thở dài
có vợi vợi nhớ về:
Con đường quê bằn bặt
Lòng ta ở đồi mơ
Trường Sơn mây xa đỉnh
Cánh chim nào bơ vơ
(NHỮNG CON ĐƯỜNG KHÔNG QUÊN)
Trong cảnh luân lạc tha phương, Trần Thiện Hiệp
có bao giờ 'Vỗ gươm mà hát'; hay, chỉ 'Nghiêng bầu mà
hỏi' . Hỏi ai? :
Tháng giêng tuyết muộn buồn se sắt
Hồn xám mù sương,lạnh bếp tàn
Tiếng sáo người xưa đêm giã biệt
Chừng đâu còn đọng giọt âm vang
Rượu cạn tưởng rồi quên nỗi nhớ
Hai mươi năm cũ, mỗi ngày qua
Đã đi mòn gót đường thiên hạ
Về nhánh sông gầy soi bóng ta
Bao nhiêu hưng phế màn buông xuống
Còn xót mộng đời héo trái non
Vạch núi, đá, vàng rơi biệt tích
Thanh gươm gãy nửa, nủa hao mòn
Vung tay bóng khẳng in tầm vách
Bốn phiá im lìm ủng tuyết sương
Trắng xóa con đường chưa đến đỉnh
Lần về mãi lạc ở mười phương
Ta đem tim óc bày lên giấy
Tìm mãi cho lòng một đốm than
Chữ nghĩa nối vòng theo khói thuốc
Mà nghe nẫu ruột những lìa tan
Chim đêm kêu lạc trong trời tuyết
Trăm ngả ngại ngùng một chuyến bay (?)
Bó gối gõ ly xua gió hú
Vụng về ly vỡ mảnh trên tay
Nhìn mảnh thương mình đời cũng vỡ
Từng trang sử lật bởi cuồng phong
Giạt trôi cơn lũ mùa oan nghiệt
Nửa bản hùng ca bặt tiếng đồng.
(VỀ NHÁNH SÔNG GẦY ...)
Đi vào mùa thu của cuộc đời; và trước mặt là chiều
thu sập tối. Còn một ánh lửa diêm lập lòe cũng là bằng chứng để định vị:
Nhánh lửa vươn cao
Chập chùng đôi bóng
Lời ru ca dao
Tình đưa nhịp võng
(NHEN ẤM ĐÊM NAY)
Nếu như chẳng còn có tình yêu cho cuộc sống này,
khi tình yêu chết non, tình yêu vơi dần cho đến cạn kiệt; thì trái đất này chỉ
còn là hí trường của Ngạ quỉ với Ác thần. Con ngươi tức CON và NGƯỜI . Phần CON
LẤN LƯỚT PHẦN người, với những man tâm sài lang hổ báo biến đồng loại thành 'Rô-bô
thịt'. Có tai đấy, nhưng chỉ để nghe tiếng kẻng. Có mắt đấy, nhưng chỉ để
nhìn thủ hiệu. Biết đến bao giờ phần NGƯỜI tữ chế ngự được phần CON? Nên,
nhân loại chẳng bao giờ thoát cảnh "Vật bất kỹ bình tắc minh":
Biển mở ra một cửa trời
Nghe lòng mở ngỏ trùng khơi vô thường
Đá ngầm nghìn trượng âm dương
Lũng du mây gió mấy đường hợp tan
Đuốc soi đãi lọc cát vàng
Mười phương vết tích điêu tàn tái tê
Chùng đêm vọng gió sơn khê
Nghe thơ chín rụng bên lề sử xanh
Lãng quên ngâm khúc biệt hành
Bỗng dưng mây khói hoá thành thịt xương
Thơ rơi ẩn ngữ hoang đường
Dư âm nào mãi còn vương ngàn trùng
(MÊ KHÚC)
TRẦN THIỆN HIỆP THAO
THỨC MỞ LỐI VÀO THIỀN
Qua thơ Tần Thiện Hiệp, độc giả có cảm tưởng như lạc vào rừng
ngôn ngữ của thơ, của triết và thiền, với những thao thức về người đời và đời
người. Thơ ông chuyên chở tình yêu da diết, tình quê đậm đà, tình nước thiết
tha và tình người nồng thắm và tình mình xót xa.
Trước hết là tình yêu. Trần Thiện Hiệp đã trải vào thơ những lời tình thiết tha
nghe như tiếng thỏ thẻ của con tim nồng cháy. Ai bảo rằng, yêu là chết ở trong
lòng một ít, còn Trần Thiện Hiệp thì luôn vẫn thấy tình yêu đẹp như hoa:
Em tượng thời thiên cổ
Xiêm y một vầng trăng
Thơ ta mềm dải lụa
Đón em về hoa đăng
Em là vầng trăng, nên chỉ ước được mãi ghì siết em trong vòng tay nồng ấm:
Em về cho gót chân son
Cho môi hạt lựu, cho tròn vòng tay
Tiếp đến là tình bạn. Trần Thiện Hiệp đã dành cho bạn những thân
tình gắn bó như thể anh em ruột thịt:
Tạ ơn các bạn gần xa
Hằng ngày chia sẻ cùng ta đủ điều…
Thăm hỏi bạn, biết rằng người còn đó
Nỗi mừng vui tràn ngập cõi lòng tôi
Cuộc đời này bao sóng gió, nổi trôi
Vui được biết, bạn bình an vui sống
Tình yêu tha thiết, tình bạn gắn bó, đến như tình quê hương thì phải nói là qúa
đậm đà. Tình quê đã kết tinh thành khối sầu nhớ trong hồn người xa xứ:
Xứ người cơm áo buồn nẫu ruột
Lấy chữ kết tình bạn gần xa
Rượu rót một mình, sầu một khối
Nhớ thương chất ngất nỗi quê nhà
Mất quê hương là mất tất cả. Từ nghìn trùng xa cách, nhà thơ cảm thấy phận mình
như chiếc lá thu bay, trôi dạt trong không gian vô định:
Bây giờ trôi dạt nơi đây
Nhìn thu lá đổ lòng đầy nỗi ta
Nỗi ta trôi với nỗi nhà
Nỗi non nước ấy đã xa nghìn trùng
Ngồi với chiều nay ngang đỉnh gió
Ta mong nắng gọi bước em về
Ngâm bài thơ cổ ngàn xưa ấy
Thấy nỗi nghìn trùng ta nhớ quê
Hình bóng đất nước tang tóc luôn luôn làm tác giả thao thức đúng như Trần Tuấn
Kiệt diễn tả: « Những nhịp điệu lập đi lập lại nỗi ta, nỗi nhà, nỗi non nước ấy
gợi cho lòng người dấy lên một nỗi buồn căm, một sự cô độc của một người tha
hương đi khắp nơi, càng ngày càng thấy xa xăm biền biệt về cội nguồn, về đất
nước ».
Thật vậy, xa cách đã mấy mươi năm, tình yêu đất nước đã kết thành khối, nặng
chĩu đôi vai người lính già tha hương:
Hai mươi lăm năm dài hai thế kỷ
Xa cội nguồn sét rỉ mộng đời trai
Người lính già còn nặng trên vai
Nguyên khối tình sông núi
Nặng mang khối tình sông núi trên vai, người Việt tha hương chỉ còn biết nhỏ lệ
cho quê hương với tiếng thở dài trong làn gió thoảng:
Con đường khuya em khóc
Hạt lệ mềm trên tay
Ngày chia lìa Tổ Quốc
Lời nào cho đắng cay
Con đường từ luân lạc
Hai mươi năm tàn phai
Sầu sóng dâng Đông Hải
Đêm nghe gió thở dài…
Thương em, thương quê rồi thương nước, Trần Thiện Hiệp còn trải rộng con tim
vào cõi nhân sinh. Nhìn thấy cuộc đời nổi trôi vô thường, tác giả đã theo bước
người xưa tìm quên trong men ruợu:
Tí tách tàn bay
Tan vào bóng tối
Rượu thấm men cay
Quên đời trôi nổi..
Tưởng quên đời nổi trôi khi thấm hơi men, nhưng oái oăn thay, hiện thực cuộc
đời lại hiển hiện trước mắt làm tác giả thổn thức:
Rượu cạn tưởng rồi quên nỗi nhớ
Hai mươi năm cũ, mới ngày qua
Đã đi mòn gót đường thiên hạ
Về nhánh sông gầy soi bóng ta
Trở về nhánh sông gầy để soi thấy bóng mình, thơ Trần Thiện Hiệp bỗng nhiên
khoác mùi triết lý. Nhà thơ hóa thân thành triết nhân, thấy đời như một cõi
hiện sinh bi đát, với nước đóng băng, trăng chết, hồn lạnh, sói gào..
Vũng nước đóng băng. Trăng chết lạnh
Vũng hồn trăng lạnh cũng thành băng
Chợt đâu tiếng sói gào trăng muộn
Vang dội rừng sâu. Động cánh bằng
Đời là thế! Tất cả chỉ là phù vân ảo ảnh như một cơn say dưới cái nhìn của một
triết nhân phảng phất tư tưởng Lão Trang
Năm mươi năm nhìn lại
Tuổi dài như mây bay
năm mươi năm thành bại
Gẫm đời một cơn say
Trong cơn say triết lý, tác giả đã thực hiện cuộc trở về tìm lại chính mình.
Nhưng tìm chẳng thấy gì! Tất cả hiện lên thành câu hỏi như một tra vấn bất tận,
làm cho tác giả lại càng hoài nghi thêm:
Nghiêng-đời-nửa-bóng tìm ta mãi
Truy vấn càn khôn một nỗi mình
Đêm vây tôi giữa trùng trùng
Tôi vây tôi giữa vô cùng hoài nghi
Lượng đời bàng bạc tà huy
Núi nghiêng bóng núi mãi truy vấn mình
Tắc nghẽn trong tư duy triết lý, nhà thơ đành mở cửa thiền để tìm về chân tướng
của vũ trụ và chân ngã của chính mình:
Từng bước chậm lên đồi nghe gió hát
Gặp mặt trời đỏ rực ở trên vai
Ta nghĩ đến kẻ thiền sư tìm đạo
Đạo vô bờ giữa trần thế chông gai
Và may mắn thay! Hình như tác giả đã tìm thấy chân lý cuộc đời sau cánh cửa
thiền. Đời là cõi sinh diệt tuần hoàn, là vô thường, nhưng cõi bất diệt đã hé
lộ sau cửa thiền. Đó cũng chính là cõi thơ, là khúc thiên ca, là nguồn thiện mỹ
giữa muôn hoa:
Cõi sinh diệt đời đời thơ lồng lộng
Nhật nguyệt tròn-vòng-nối khúc thiên ca
Kẻ thiền sư tìm chân nguyên đường ngộ
Ta tìm nguồn thiện mỹ giữa muôn hoa
Lúc này Trần Thiện Hiệp đã tìm thấy Đạo. Nhà thi vào vô ngôn sống thật sự hạnh
phúc, đúng là thứ hạnh phúc của một thi sĩ, quên mình, quên đời, tĩnh lặng để
hòa nhập vào cỏ hoa: Hạnh phúc là suối mát cỏ hoa.
Thế là tuyệt vời. Sống mà như thoát tục. Chân dù có bám đất, hồn vẫn níu đựợc
trời vô biên:
Phù du còn lại nửa đời
Vẫn chân bám đất vẫn trời vô biên
Ngô Quốc Sĩ
---------------------
Vì như có người đã nói “Thi sĩ là người
xây dựng lên tất cả! Thơ đạt tinh thể của nó. Là cõi bất diệt của Đạo”. Thi sĩ
là một con chim lạ trong cõi đời này. Hót lên những giọng “âm vàng gió bay”,
nhưng mà cõi đời thì lắm chông gai, đôi khi lại bao nhiêu điều ngộ nhận, tai ác
khiến con chim lạ đó phải hót lên những điệu máu xương giữa đời. Tiếng thơ đã bù
đắp cho Trần Thiện Hiệp những điều mà nhà thơ thiếu vắng:
Em về cho gót chân son / Cho môi hạt lựu, cho tròn vòng tay
Những nhịp điệu lập đi lập lại nỗi ta, nỗi
nhà, nỗi non nước ấy gợi cho lòng người dấy lên một nỗi buồn căm, một
sự cô độc của một người tha hương đi khắp nơi, càng ngày càng thấy xa xăm biền
biệt về cội nguồn, về đất nước. Ngày nào Tản Đà trầm buồn viết “Nước đi ra bề
lại mưa về nguồn”, còn bây giờ với Trần Thiện Hiệp “Nỗi ta, nỗi nhà, nỗi non
nước ấy...” gần như một thứ vong thân đau đớn nhất của một người Việt hải ngoại
không bao giơ quên quê hương đất nước. Tiếng thơ quê hương của Trần Thiện Hiệp
đã nói lên nỗi cay đắng của một người làm thơ hoài vọng cố hương trong từng hơi
thở. Ta hãy lắng nghe tiếng lòng của nhà thơ họ Trần trong bài “Chào Paris” đễ
cùng chia xẻ:
Chào đồng hương cùng tôi luân lạc
Vẫn một tấm lòng ở với quê hương
Vẫn dành trọn tình thương cho quê mình nghèo
Bên kia bờ đại hải
Ta mong nắng gọi bước em về
Ngâm bài thơ cổ ngàn xưa ấy
Thấy nỗi nghìn trùng ta nhớ quê
“Bước chân vô định biết đâu là nhà...kể từ lạc bước bước ra” ôi Nguyễn Du! Sao thơ của người xưa lại buồn đến thế. Người xưa và người đời nay quả là chịu một kiếp nạn “Cổ kim hận sự thiên nan vấn” vậy!
Nhưng Trần Thiện Hiệp còn có thơ, còn có nàng thơ, chưa đến nỗi phải tuyệt vọng! Điều đó thật đơn giản nhưng mà hiếm lắm thay!
Tóc em bạc sợi thủy chung / Nỗi ta tóc ấy xin cùng có nhau
Đó là hạnh phúc, là cội nguồn, là hồng ân của tạo hóa ban tặng cho nhà thơ! Có ai đi suốt cuộc đời, đến sự thất bại cuối cùng của kiếp người mới hiểu thấu được cái nghĩa thâm sâu của “Tóc em bạc sợi thủy chung” đó. Đó là sự viên mãn mà cụ Khổng Tử đã bao lần nhắc đến. Khổng Tử nói về Đạo, Trần Thiện Hiệp nói về Thơ. Tuy có khác nhau, nhưng “nhất dĩ quán chi” cả vậy. Đôi lần ta nghe Trần Thiện Hiệp nói về sự phù du của kiếp người:
Nghe trong vần chuyển đất trời / Có tôi hạt bụi giữa đời phù du
Tuy là phù du mà thực sự là một sự hiện hữu có sự đóng góp tiếng nói – tiếng thơ của mình giữa vũ trụ vô biên, giữa hồng trần đau khổ, thì sự hiện hữu đó đã tạo ra giá trị của một con người dấn thân vào lịch sử vậy. Bài “Rừng Trăng” dưới đây của nhà thơ họ Trần thì giá trị nghệ thuật đã thành tuyệt bút ngang với bài Ông Lão Ngồi Câu Tuyết của Liễu Tông Nguyên:
Giang Tuyết
Muôn con đường mất vết chân người
Ông già nón lá, áo tơi
Đậu thuyền sông tuyết, riêng ngồi buông câu
Và “Rừng Trăng” của Trần Thiện Hiệp thì:
Vũng hồn trăng lạnh cũng thành băng
Chợt đâu tiếng sói gào trăng muộn
Vang dội rừng sâu. Động cánh bằng
Bài thơ đẹp quá, đã xóa nhòa cả cái lạnh của sự vật, của tâm hồn
băng giá và bất chợt nó hóa thân từ thi ngữ ra tiếng sói gào trăng. Động cánh
bằng! Đó là cái lý đẹp cuả thơ Việt hiện tại.
“Những Con Đường Không Quên” từ những nẻo đường xa xứ gợi nhớ lại càng nồng, càng tha thiết, càng trắc ẩn và đau thương của nhà thơ:
Con đường khuya em khóc Hạt lệ mềm trên tay Ngày chia lìa Tổ
Quốc Lời nào cho đắng cay Con đường từ luân lạc Hai mươi
năm tàn phai Sầu sóng dâng Đông Hải Đêm nghe gió thở dài...
Bài “Về Nánh Sông Gầy Soi Bóng Ta” dường như tiếp nối nhịp đi của bài “Những Con Đường Không Quên”, nó gợi nhớ âm thầm não buồn với:
Tiếng sáo người xưa đêm giả biệt Chừng đâu còn đọng giọt âm vang
Trần Thiện Hiệp đã mượn rượu để ru nỗi khắc khoải của đời mình, làm cho người đọc cùng cảnh ngộ dễ chia xẻ và cảm thông sâu sắc cái tâm cảnh xa quê rất thơ, rất nhân bản trong thơ ông:
Tí tách tàn bay Tan vào bóng tối Rượu thấm men cay Quên đời trôi nổi
Hai mươi năm cũ, mới ngày qua
Đã đi mòn gót đường thiên hạ
Về nhánh sông gầy soi bóng ta
Và hãy đọc:
Ru em thơ cổ ngọt nào Ru ta mượn chén ba đào rượu cay
Uống rượu để tiêu tan cái sầu vạn cổ như Lý Bạch, uống rượu để
say vì phiêu bạt giang hồ bốn phương, vì quá cô độc một kiếp người – cái say vì
thân phận trong bài “Tháng Chạp”:
Hồ Trường ngất ngưởng hóa xa xưa
Chí trai còn lại vuông trời nhỏ
Mỗi bước cưu mang chiếc bóng thừa
Nhà thơ họ Trần đôi lúc còn muốn chia xẻ cái say cô đơn, luân lạc của minh với mây gió, cỏ cây như trong bài “Thèm Gió”:
Ta bỗng dưng thèm cánh gió lay
Để lá chuyển mình hoa nắng rụng
Đem về hâm ấm rượu đêm nay
Hay những câu:
Tôi viễn khách Giữa rừng phong Men rượu nồng Thơ biệt
xứ
Trần Thiện Hiệp đem tâm tình để viết lịch sử. Lịch sử
một giai đoạn biến chuyển của dân tộc, và lịch sử ghi đậm nét hoàng cảnh cùng
tâm tình của dòng người luân lạc xa quê, tỏa ra khắp năm châu bốn biển, mà nhà
thơ là một chứng nhân cùng chung cảnh ngộ. Tập “Thơ Trần Thiện Hiệp”,
một thi phẩm trải rộng tâm hồn thi sĩ khắp bốn phương trời, và khép lại trong
lòng mình dấu tích của một nhà thơ có tầm vóc trong hàng ngũ ít ỏi
những nhà thơ Việt đương đại. Tiếng thơ của thi sĩ họ Trần đã buông ra như tuyết,
như hoa dưới vầng nhật nguyệt đầy ánh sáng và tiếng vọng của thời gian, tiếng
gọi của tâm tình nhân loại. Đôi khi người ta còn lắng nghe được:
Ở từng chữ Hạt lệ treo
Đọc bài “Trường Trượng”ta cứ ngỡ như thơ Vũ Hoàng Chương còn ẩn kỳ tứ đâu
đây. Với thi sĩ họ Vũ thì:
Kìa non đá lỡ này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa chớp bốn bề một phương
Ta xin cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vươn gót này
Cho ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay núi trời
Riêng với nhà thơ họ Trần thì:
Hoa kinh gối chữ cõi tu lối nào
Huyền vi trường trượng trời cao
Hồng trần những đoạn chiêm bao vô đề
Ai phân bến giác, bờ mê
Thu không nào điểm lối về nẻo tâm
Với bản lĩnh thơ vững vàng, Trần Thiện Hiệp đã trải qua phần tư thế kỷ tha
hương mà vẫn giữ được tinh thần Đông Phương, phong thái của thi sĩ Việt. Mặc
dầu thế, màu sắc và thời gian, không gian trong thơ ông không thu hẹp trong
“khí hậu thơ” trong nước mình, mà thơ ghi nhận được rất nhiều hình ảnh xa lạ
của thiên nhiên sự vật trên bước đường dài ở xứ người. Điệu thơ cũng như phong
thái Trần Thiện Hiệp lúc nào cũng đầy nét hào sảng, biểu hiện tâm tình nhẫn nại
vô song trước mọi cảnh huống trong đời. Lấy tư tưởng cao siêu của nhà Phật làm
nền tảng cho đời sống tinh thần – trước mọi đau thương, bi hận của định mệnh
con người – nhất là giữ được sự thủy chung với tình yêu, với bạn hữu như trong 2
bài Lục Bát thật đẹp như sau:
Da thơm má ửng mắt chao thuyền về
Em vin tay, cành hoang mê
Lá xanh mươn mướt thỏa thê tiếng chào
Như yêu em từ chiêm bao
Mùa xuân nhân thế ngọt ngào vẫn nguyên
Đường trăm năm qua bao miền
Trong thơ em đứng bóng hiền như thơ
Ngày chia nhau vui tình cờ
Đời lê thê niềm chờ mong
Ai ngồi khắc đá cho dòng thơ bay
(Ngày vui tình cờ)
Và:
Rừng ta xanh biếc lạc tìm dung nhan
Yêu người núi nở trăng vàng
Sông ta trăm nhánh quyện ngang hình hài
Yêu người ngày nở sao mai
Suối ta ngàn dặm nối dài tóc sương
Yêu người gió nở buồm dương
Biển ta trường trượng vô lường thủy chung
(Ngày trở lại)
Giữa cái sống và sự chết, giữa ánh sáng và đêm tối, lúc nào lộ trình của mình
vẫn chan chứa trăng sao hoa lá, mặt trời và tình yêu – Trần Thiện Hiệp có chiều
sâu hơn đời của một thi nhân là ở đó vậy. Đến với bài “Dõi Chuyến Phà Sương”
thì thật là một tinh thần lãng mạng phong phú vô cùng với thơ, với nghệ thuật
hiện đại – Vì thế mà nhiều lúc người yêu thơ thích và thuộc tiếng thơ lãng mạng
hơn các loại thơ siêu hình chỉ bàng bạc những khuông sáo của những kinh điển
đạo lý, hoặc những tư tưởng triết lý qua các nền triết học hiện đại, rất đỗi nhàm
chán! Lãng mạng bao giờ cũng tân kỳ, cũng mênh mông vô cùng của tiếng thơ
từ Lamartine đến Tagore, và những điệu thần linh ca của Hoelderlin. Thân
phận con người được triết học nói nhiều, những nhà thơ Hiện sinh như Nguyên Sa,
Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, nhất là Viên Linh với tập “Cúc Hoa” hết sức lạ
thường.
Trần Thiện Hiệp thì vừa cao cả vừa cô quạnh như pho tượng “chênh vênh phận
người” ở giữa cuồng phong, giữa mùa tuyết tan, giữa cơn thịnh nộ của trời đất
và thảm họa của con người, của chiến tranh gây ra – Lúc đó ông mặc kệ, và hầu
như “thách thức với số phần”, gần gũi với bằng hữu, với tình yêu, với sợi khói
với hạt rượu, với thơ...và ngây ngất suốt đời làm kẻ “say thơ, em và
rượu”. Nhưng người đọc thơ Trần Thiện Hiệp phải ghi nhận một điều, thi ngữ
của nhà thơ, đó là chữ Em. Em trong thơ, có thể, là dòng sông, có thể là
sao mai một đóa, là ánh sáng thiên hà, là đêm trăng rằm tình sử, là chiêm bao
mộng mị...Em cũng có thể là Tạo hóa v.v...Dường như tâm hồn Trần Thiện Hiệp là
một cõi đại đồng hòa hợp nhân ái, từ tâm với mọi sự vật trong đời, cho nên thơ
ông cũng vậy. Hãy đọc “Những Với Cùng Thương” thật là một cõi Tâm rạng
ngời đạo thể!
Với thơ Thương chữ rạng ngời
Với người Xin rất thật thà
Với say thương phút tuyệt vời
Với đêm Thương chiếc bóng ngồi
Nhưng không chỉ để tâm hồn thả mông lung vào cái đại ngã, cái
cao thâm của vũ trụ vạn vật, Trần Thiện Hiệp còn nêu lên rất rõ mình là một
người Việt Nam, có một truyền thống kiêu hùng, có một bản sắc văn hóa tâm linh
từ quê hương dân tộc. Như thế mặc dù xa quê đã lâu, Trần Thiện Hiệp vẫn
giữ được bền bỉ một cội nguồn dân tộc trong dòng máu. Điều đó khiến cho
chúng ta thêm yêu quí thơ ông. Ở bài “Việt Nam Trong Tôi”
nhà thơ đã hạ bút:
Trong xương thịt tôi Có Trường Sơn, có Cửu Long Có Cao-Bắc-Lạng, có sông Hồng Có trời, biển rộng Nam-Trung-Bắc Có máu cha ông giữ nước nhà
Đôi khi thơ Trần Thiện Hiệp có điệu như cổ thi, lắm lúc xưa hơn cả người xưa, điều hiếm thấy của các nhà thơ ngày nay – Vẫn là rượu:
Ru em thơ cổ ngọt ngào Ru ta mượn chén ba đào rượu cay
Hoặc là:
Vạc kêu cuối lũng mù sa Non đoài nửa mảnh trăng tà hắt hiu
Sao mà nó buồn xa thẳm đến thế. Nếu không nhập được hồn mình vào cảnh ngộ, không chân tình làm sao người thi sĩ có thể viết được những dòng sầu mộng như thế được. Đôi khi thơ quá buồn nhập vào cái lạnh của vách đá khiến cho người và đá vô tri cũng lạnh lẽo như nhau:
Tựa lưng vách đá Thân cùng đá Hai khối niềm riêng, một lạnh chung
Rồi ta lại đọc:
Rừng đêm vẫn lạnh dải thiên hà
Nay ta muốn đốt câu thần chú
Cho đá nở bừng ngọn lửa hoa
Người xưa quan niệm cuộc đời là hư ảo, là một giấc mộng. Tản Đà có giấc Mộng lớn, giấc Mộng con. Riêng nét nhìn đời như Trân Thiện Hiệp thì... Đời như một cơn say, để rồi:
Tuổi dài như mây bay
năm mươi năm thành bại
Gẫm đời một cơn say
Nẻo tâm lồng lộng mở
Đêm hâm rượu trăng chờ
Hoặc:
Chung vui men rượu đắng Rồi đi, rồi bâng khuâng
Say đời, say tình say nghĩa hay say về sự cuồng bạo của dòng
lịch sử, say về sự thất bại của kiếp người luân lạc, của mộng ước trở thành
hoang mạc, hư không! Bao hoài bão thả dài theo khói thuốc!
Sau buổi tiệc rượu trần gian, bữa tiệc đã tàn, đã vắng, nhà thơ trở về với cái
thế giới yên lặng, mênh mông để ẩn mình trong cõi bờ thanh tịnh
vô vi của Lão Trang, như trong bài thơ “Tịnh” đầy phong vị thiền sau
đây:
Rạng đông bắt gặp mây trôi ngang nhà
Tự tay đun nước pha trà
Ngắm đào nở rộ tháng ba quanh vườn
Hay là trong bài “Trà Sáng”:
Chung trà vàng giọt nắng bên sân
Ta nghe rất rõ lòng thanh tịnh
Cây lá quanh vườn hóa bạn thân
“Đêm Bát Nhã” một bài thơ xếp câu ba chữ như điệu gõ mõ theo nhip tụng niệm mà nhà thơ họ Trần tặng cho nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu, một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử, cũng là bạn ngày trước của người viết ở trường Quốc Gia Âm Nhạc. Bài thơ câu ngắn, lạ lẫm nhưng ý thật sâu xa nêu lên được cái chân lý Phật pháp của Bát Nhã Ba La Mật. Và từ đó cho ta thấy Trần Thiện Hiệp giàu có thi ngữ, và cái triều suy nghiệm của ông thật phong phú trong nhiều góc cạnh của đời sống:
Trong trí nhớ Tiếng thở dài Giữa tàn phai Cơn sóng biển
Lời kinh điển
Tiếng mõ đưa
Ngày Đại thừa Đêm Bát nhã Rừng bản ngả Lối u minh Cõi
chúng sinh Người hành giả Giữa gian trá Kẻ tịnh tu Vạch
sương mù Đi tìm Đạo Nghe lòng bảo Phật tự tâm Diệt
tham sân Yêu vạn vật Lấy lượng Phật
Độ trần gian Ánh Đạo vàng Soi bể khổ Tâm giác ngộ Chữ từ bi Là bước đi Đấng Bồ Tát
Với bài “Lục Bát Rời” Trần Thiện Hiệp vừa khép lại tập thi tuyển
của ông, một tập thơ mà ý thơ, cùng cảm xúc, hứng khởi và sự suy niệm lẻ tử
sinh, thành bại của cuộc đời:
Ta đi thiên địa mù không Ta về nối lại những vòng khói tan Ta đi mòn bước quan san Ta về nghe lửa bếp tàn đông reo Ta đi trăm lũng nghìn đèo Ta về hiên vắng cành treo trái sầu Ta đi rừng biển say nhầu Ta về nhật nguyệt trên đầu ngón tay
Với thi tuyển “Thơ Trần Thiện Hiệp” nhà thơ họ Trần đã chứng tỏ giá trị của một
người làm thơ có bản lĩnh, phong thái của một thi sĩ Đông Phương. Đó là một tập
thơ đầy giá trị trong cõi thơ hôm nay, và nhất quán từ đầu đến cuối. Tập
thơ này xứng đáng đặt chung với “Thủy Mộ Quan” và “Cúc Hoa” của Viên Linh, “Lời
Tỏ Tình Trong Đêm” của Trần Dạ Từ, hoặc “Hồn Thiên” của Nhất Hạnh, và những tập
của Hoàng Trúc Ly, của Hoài Khanh trong những nhà thơ hiện đại vậy.
Trần Tuấn Kiệt
No comments:
Post a Comment