Hơn
một ngàn năm trước, thi sĩ Trần Tử Ngang có lần lên chơi trên đài Ô Châu, nghĩ
đến cái man mác vô cùng của thời gian, tự dưng để cho hai hàng lệ lăn dài xuống
má:
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi lệ hạ".
Tạm dịch:
(Bao người kim cổ nay đâu
Ngàn xưa cho đến ngàn sau bẽ bàng
Mênh mang trời đất mênh mang
Một mình bất chợt hai hàng lệ sa).
Hơn
một ngàn năm sau, nhà thơ Huy Cận, cũng một lần một mình rong chơi vào cõi mênh
mang vô tận của thời gian, bất giác rùng mình khi nhác thấy con người nhỏ bé
quá giữa vũ trụ đại ngàn, giữa không thời gian vô tận. Thi sĩ viết:
Mênh mang thiên cổ sầu".
Một
mảnh hồn Đường, một mảnh hồn Việt, cũng như muôn vạn tâm hồn phù du cõi mộng sẽ
phải bật khóc khi cảm thấy buốt lạnh tồn sinh một chút thân bèo bọt, sẽ phải rờn
lạnh kiếp người giữa cùng thẳm hư vô. Ta hoa đốm giữa thái hư ngát lạnh. Ta bọt
bèo trên đại dương chơi vơi. Ta làm gì? Ta là gì? Tuệ Trung Thượng Sĩ đã có lần
viết:
Cự hải hà phân nhất biển âu".
Trường
không giả sử đôi vành chuyển, thì xá gì một điểm trắng giữa trùng khơi bát
ngát. Ta ở đâu? Ta có hay không? Nhìn phía trước chẳng thấy người xưa, nhìn
phía sau thì chưa ai đến. Có phải người trước là ta bây giờ? Hay là cha ta, mẹ
ta, anh em, bầu bạn của ta? Ai giải đáp được câu hỏi này? Có ai không? Có ai
không?
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân".
Người
xưa không thấy được mặt trăng ngày nay, nhưng trăng ngày nay đã từng chiếu đến
người xưa đấy. Ta hụp lặn trong vòng sanh tử luân hồi, bao nhiêu kiếp số rồi? Hằng
hà sa số ư? Ổ! Ít quá!
Đức
Phật dạy: "Không có một tất đất nào trên thế gian này mà không có thân ta
đã từng bỏ mạng ở đó. Không có một người nào, một loài vật nào ta gặp trên thế
gian này mà chưa từng là cha mẹ, anh em, vợ chồng, bầu bạn của ta".
Mất
cha mẹ, ta khóc; mất người yêu, ta khóc... "Nước mắt của chúng sanh nhiều
hơn nước bốn biển". Nhưng ta chỉ biết khóc trước nỗi mất mát hiện tại, nước
mắt của ta là nước mắt của thất tình lục dục. Còn Đức Phật – người đã chứng được
Lậu tận minh, Ngài thấy hết nghiệp thức của chúng sanh trong suốt quá khứ, hiện
tại, vị lai rõ ràng như thấy kẻ chỉ ở bàn tay. Thế thì trước đống xương khô lâu
đời, Ngài trực nhận ra tất cả cha mẹ, anh em, vợ chồng, bầu bạn, lục thân quyến
thuộc và chính thân xác của mình bao lần để lại trên đống xương này, rõ ràng
như chỉ mới hôm qua. Nói như cách nói của Vũ Hoàng Chương: "Nghìn thu nửa
chớp bốn bề một phương", làm sao không cảm động? Thương nghĩ về sự luân hồi
sanh tử của tất cả muôn loài, tìm phương hóa độ, đó mới là Đại hiếu.
Đọc
một câu kinh, nếu biết tư duy thì một chữ trong kinh Phật cũng hàm chứa tất cả
ba ngàn đại thiên thế giới. Trần Tử Ngang rơi lệ khi nhác thấy cái vô tận của
thời gian, nhưng thời gian của nhà thơ nghĩ đến vẫn là hữu hạn, cái hạn định ở
điểm cuối cùng của dòng tâm thức. Còn cái thấy của Phật thì vượt ra khỏi tình
thức, tuyệt đối đãi, siêu nhị biên. Giọt lệ ấy mới là giọt lệ của bậc đại trí,
giọt lệ chứa đựng tất cả lòng chân từ bình đẳng, kết quả của sự quán tưởng triệt
để chân tướng của các pháp. VU LAN BỔN KINH TÂN SỚ của ngài Trí Húc đời Minh
trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (trang 573, quyển 16 ) có đoạn viết:
"Từ hiếu có ba thứ:, một là Sanh duyên từ, hai là Pháp duyên từ, ba là Vô
duyên từ".
Sanh
duyên từ tức là nghĩ đến tất cả chúng sanh như là cha mẹ, ta đời đời không có
kiếp nào là không thọ sanh từ cha mẹ. Khi quán tưởng như thế, tất cả kẻ oán người
thân đều bình đẳnh, lấy đó để điều phục sự sân hận, san tham và tật đố, cho đến
chứng đắc Từ Tâm Tam-muội. Phàm người nào có duyên với ta, ta đều đem niềm vui
đến cho họ, vớt cái khổ não của họ. Cha mẹ đối với ta thâm ân trời biển nên ta
phải báo đáp trước.
Pháp
duyên từ tức quán tưởng tất cả các pháp đều là duyên sanh, cho nên Kinh Phạm
Võng nói tất cả đất, nước đều là thân ta, tất cả gió, lửa đều là thân ta. Tất cả
chúng sanh đều do Tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành, cho nên không có sự
khác nhau giữa ta và người, không có sự khác nhau giữa thọ mạng và kiếp số. Tứ
đại đã không hai, cho nên từ tâm duyên đến tất cả cũng bất nhị. Khi quán tưởng
như thế thì chứng đắc được Từ Tâm Tam-muội, năng lực cứu khổ còn thù thắng hơn
Sanh duyên từ nhiều lần nữa.
Vô
duyên từ tức là biết rõ Tâm, Phật và Chúng sanh, cả ba chẳng có gì sai khác. Cả
pháp giới là nhất tướng, chân thật bình đẳng, không trụ ở tướng của các pháp và
tướng của chúng sanh, quán Bồ-đề tức là phiền não, Niết-bàn tức là sanh tử, khởi
thệ nguyện vô tác, cứu bạt hết cái gốc của khổ. Quán phiền não tức Bồ-đề, sanh
tử tức Niết-bàn, khởi thệ nguyện vô tác, ban cho tất cả niềm an lạc. Từ ở đây
chính là Bi, Bi ở đây chính là Từ, thuận theo tính chất của pháp tánh mà tu tất
cả pháp... Đó chính là Đại Từ Đại Bi.
Giọt
lệ của Phật chính là giọt lệ Đại Từ Bi.
Mùa
Vu Lan lại đến trong lòng mỗi người con Phật. Ta đọc tụng kinh điển Đại thừa,
ta có đủ sức tin những điều Phật dạy không? Nếu tin được lời Phật thì ta không
bao giờ rắp tâm làm hại một ai cả. Ngay cả Nho giáo còn dạy: "Vô cố nhi
thương nhất côn trùng, phi hiếu dã; Vô cố nhi tổn nhất thảo mộc, phi hiếu
dã" (Vô cớ mà làm thương tổn một loài sâu kiến thì không phải là người có
hiếu; vô cớ mà làm tổn hại đến một loài cây cỏ cũng không phải là người có hiếu).
Huống hồ mưu hại một ai. Nếu hiểu và tin lời Phật dạy thì tự nhiên mọi người sẽ
yêu thương nhau, thế gian này sẽ bình yên và hạnh phúc biết mấy.
Dòng
sông Ái vẫn chảy trôi mãi hoài không dứt, ta lang thang, vất vưởng nẻo luân hồi
bao kiếp số. Ta yêu, ta ghét, ta hận thù, ta chém giết... Tất cả bởi vô minh, tất
cả do mê mờ không biết. Duyên khởi trùng trùng đã may mắn cho chúng ta một lần
được ngồi đọc tụng kinh Phật, nghiền ngẫm một câu kinh là chiêm nghiệm một chân
lý, là thắp sáng hiện hữu nhiệm mầu lung linh qua một giọt lệ của Đấng Đại Từ
Bi. Xin đảnh lễ A-nan Tôn giả cho con lời kinh vàng ngọc, xin đảnh lễ Mục Liên
Tôn giả cho con niềm tin hiếu hạnh, xin đảnh lễ nụ cười, giọt lệ, hạnh phúc và
khổ đau, cho con một lần biết yêu thương thắm thiết trần gian điên dại này.
No comments:
Post a Comment