Huy Tưởng và nhịp sáu,
tám trên vách đêm
Bài TRỊNH THANH THỦY
đêm.tôi khản giọng tru
trăng
Cuồng nư cắn vỡ miếng
rằm.chưa lên
đất trời cuồn cuộn.mông
mênh
tôi nghe vang tiếng biệt
tăm.đáy chiều…
(Tiếng Biệt Tăm)
Nhà thơ Huy Tưởng đã bắt
đầu tập thơ mới “Đêm Vang Hình Tiếng Chuông” của mình bằng một bài thơ lục bát
phá cách rất hàm súc. Đây là tập thơ thứ 8 của ông sau hơn 60 năm đi và thở
trong làn khí quyển thơ ca với một đức tin mà ông tuyệt đối tin vào sự truyền
dẫn của cảm xúc. Trong một hành trình thơ, khởi đi từ thể thơ “lục bát” mềm mại
dân tộc, ông tiếp tục bung phá chữ nghĩa ở những thể thơ khác, nhiều nhất là
“tự do”, để rồi trở về với nhịp câu 6, 8 gập ghềnh, đa tầng, đa ý.
Gần 200 bài thơ lục bát
được gom lại, ôm chứa bao nhiêu là hợp âm rung cảm xô dạt, biến thiên, của
chiếc bóng đời người trên vách thời gian khúc khuỷu. Tập thơ được nhà xuất bản
Văn Học trình bày rất trang nhã với những hoạ phẩm do hoạ sĩ Trương Đình Uyên
thực hiện.
Có bước vào thế giới lục
bát của Huy Tưởng bạn mới thấy được đâu đó những bông hoa long lanh ánh lửa,
trăng tà mưng mưng, tiếng chim thóc thách, hay nũng nịu bờ rêu. Tất cả những
con chữ, tứ thơ, âm điệu, nhịp, câu, chạm nhau, hoà tan và dẻo quánh lại, để
phả ra một làn hương lạ, rất lạ.
tiếng chim.tát cạn câu
thơ
ngoài khung cửa cũng bất
ngờ.tắt hoa
tôi từ mông muội.bước ra
đưa tay hái ngọn trăng
tà.lau đêm…
(Tiếng Chim)
Tại sao lại lạ? Vì chúng
được tác giả trân trọng dùng cảm xúc của mình dẫn người đọc đi vào một căn nhà
lục bát rất cổ xưa nhưng lại có cái cảm giác vừa thân quen vừa khang khác trong
tiết tấu lúc dồn dập, khi lắng chìm, thỉnh thoảng mênh mang hiu quạnh. Đôi lúc,
những “dấu chấm” chen vào câu 6, câu 8 thay cho dấu phẩy, chấm phẩy, hay hai
chấm, có tác dụng hệt như một dấu ngắt, hay một khoảng trống trong hội hoạ,
hoặc dấu lặng ngắn trong một nhạc phẩm. “Dấu chấm” này nằm có khi giữa câu, hay
đâu đó trong một câu, mà không có khoảng trống ở giữa hai từ như chúng ta
thường viết. Nó khiến người đọc khựng lại, và chú ý tới những gì đang xảy ra,
để rồi ngạc nhiên với sự đổi mới trong lời, trong ý của các từ kế tiếp. Không
những thế, sau mỗi nhan đề của bài thơ, lại có một dấu phẩy. Tất cả làm nên một
ký hiệu riêng của một Huy Tưởng đặc thù.
Người đọc có bao giờ hình dung ra được một tiếng chim lại có thể tát cạn một câu thơ. Hay, ai có thể đưa tay hái ngọn trăng tà mà lau đêm. Những từ tượng thanh, tượng hình trong chữ ông dùng, đối đá nhau rồi hoà quyện mở ra một không gian sinh động mà vô cùng lặng lẽ của người và vật trong một đêm thanh. Nếu so sánh bài thơ với một bức tranh chúng ta có thể ví nó như một bức tranh siêu thực mà sự vật thực trong trạng thái không thực được thấy trong mơ.
sơn núi lặng chết.như từng lặng thinh
lặng thinh
trần trụi riêng mình
phất tay
nện một chày kinh
bỏ về …
(Chàng “Sơn Núi” đã lặng lẽ ra đi)
Điều đặc biệt tôi thấy hầu như các bài thơ lục bát của ông trong tập thơ này, chúng chỉ có 4 câu, không hơn không kém. Bất cứ cách trình bày nguyên hàng hay lên xuống hàng thế nào, chúng cũng gói trong 4 câu vỏn vẹn. Dấu chấm trong câu lục của ông như một nhịp chõi mở ra một thế giới đa tầng, đa nghĩa của những từ kế tiếp như “đá im khàn giọng.chim rừng.”
Nhắc đến cố thi sĩ
Nguyễn Đức Sơn là nhắc đến tình bạn thân thiết của hai nhà thơ cùng thời, cùng
thân thiết, cùng yêu thơ trong cái thú: ăn, ngủ, sống, chết với thơ. Họ biết và
chơi với nhau từ cuối thập niên 60 cho tới ngày “Sơn Núi” đi luồn vào núi không
về nữa. Tôi chỉ có duyên biết và trò chuyện với cả hai mà chưa bao giờ gặp gỡ.
Tôi cũng ngạc nhiên khi tính khí hai người quá khác mà chơi thân mới lạ. Hỏi
Huy Tưởng, ông bảo, “Những ai đã chơi thân với Sơn mà không có vài lần to tiếng
thì... chưa được gọi là thân, nhiều lúc cãi cọ suýt... đánh nhau”. Ngày đó họ
thăm nhau, vì nhau, tương đắc nhau và cùng làm thơ.
nâng niu mẹ ẵm theo mừng không con
có vài chiếc lá còn non
gió xua lửa khói nổ giòn trên không
nắng tà trải xuống mênh mông
bước theo chân mẹ cha bồng hư vô
(Đốt Cỏ Trên Rừng - Nguyễn Đức Sơn)
Huy Tưởng đáp lại một bài thơ như cảm được cái tình, cái nghĩa của người bạn nhưng với chính tâm tư của mình.
hơ cho đỡ lạnh bàn tay sương mờ
ngồi bên ngọn lửa hoang sơ
hốt nhiên tôi sợ hư vô cháy bùng
(Đốt Cỏ Trên Đồi - Huy Tưởng)
Ở hải ngoại lâu, tôi
không còn được trông thấy cảnh người ta đốt đồng hay đốt cỏ, đốt rác ở Việt
Nam. Đọc hai bài thơ, quá khứ trong tôi sống dậy với những đám khói đốt đồng
lan toả trong không trung như sương mờ làm mắt cay xè những buổi chiều tà. Hai
nhà thơ cùng nhìn khói mà “Sơn Núi” thì “bồng hư vô” trong khi Huy Tưởng lại
“sợ hư vô cháy bùng.”
sao ta nghe động trăng ngàn.suốt thu
con giun.con dế.sa mù
ngày mai thôi nhé.thân mù mịt.bay...
ngày mai.cô độc nơi này
bóng ta cuốc đất.vai trầy hư không!
(Cuốc Đất Cùng Em trai Trên Vườn Rẫy Cam Ranh)
Nếu bạn đi sâu vào dòng tư duy trong thơ Huy Tưởng bạn sẽ phác giác ẩn hiện đâu đó mang mang những thao thức, khắc khoải khôn nguôi bởi lẽ sinh diệt của kiếp người, của muôn loài. Ông đi vào thiền một cách nhẹ nhàng, không khoa trương sáo ngữ, không lập đi lập lại sáo mòn. Thơ thiền hay ở ý, nhưng vị thiền không thể đượm hương bởi những từ ngữ chuyên biệt uyên áo được rút ra từ trong các kinh sách hoặc từ các tự điển Phật học bị mất máu vì chưa được tiêu hoá nhuần nhị, thiếu cảm xúc thực sự, biến một ảo diệu thành khô cứng, chói tai, vô tri giác... Bùi Giáng bàn về Khổng, Mạnh,... mà chỉ nói đến chuồn chuồn châu chấu,... quả là tài năng thượng thừa!
Ngay cả những bài thơ dính tới Thiền của Huy Tưởng cũng không giống với cái gọi là thơ thiền truyền thống.
mưa gẫy
gió vang xanh kè đá
chuông lều ai.vừa lấm
vệt son tươi?
(Đến Thăm Bạn Đang Ở Ẩn Trên Núi)
Bài thơ trên, nhắc tôi nhớ những bài hài cú giản đơn mà thoang thoáng thiền vị của các thiền sư Nhật nổi tiếng như Basho. Sự giản đơn mà cô đọng. Cực kỳ đơn giản mà đa nghĩa là cái vi diệu của chữ nghĩa người làm thơ. Charles Mingus có nói “Sáng tạo không chỉ là khác biệt. Bất cứ ai cũng có thể cố làm cho khác thường, dễ mà. Cái khó là phải giản đơn như nhạc sĩ Bach. Làm cho nó đơn giản, cực kỳ đơn giản, nhưng phải đơn giản tuyệt vời, ấy mới là sáng tạo.”
Hài cú hay, thường có một câu cuối chấm phá mà ý thơ không dính dáng gì tới các câu trên. Câu cuối “vệt son tươi?” trong bài này, ý thơ đặc biệt gây chú ý cho người đọc. Toàn bài tả cảnh một người đến thăm một người bạn đang ẩn tu trên núi nhưng hình như lòng chưa thoát khỏi chữ “vọng” trong tâm. “vệt son tươi?” ở đây chúng ta có thể hiểu là hình bóng một giai nhân hay là “vọng tưởng”,”vọng niệm” hay “tạp niệm” trong ngôn ngữ nhà Phật. Vì câu trên “chuông lều ai vừa lấm” tiết lộ người này đang ẩn tu.
Lục bát truyền thống có vần điệu được quy định sẵn, nhạc thơ cũng theo tiết tấu mà nhịp nhàng lên xuống, khiến người đọc dễ thuộc lòng, hệt như một bài nhạc. Vì cách gieo vận khiến ý và nhịp thơ liền lạc với nhau, tiện cho người làm thơ biến bài thơ của mình thành một câu chuyện kể dài. Tuy nhiên đọc lâu biến thành ề à một điệu, mau chán. Cách tân một bài lục bát không dễ, tuân thủ quá thì thành vè, hay tạo ra những chữ thừa, biến thành kẻ ráp vần thô thiển, lười nhác. Còn nếu cách tân bằng thứ ám ngôn đảo ngữ, hoặc đảo chiều cho điệp vận thì bao nhiêu năm nay đã có người từng làm, nhan nhản mỗi ngày trên các phương tiện truyền thông. Huy Tưởng chọn một lối cách tân riêng trong cả hình thức lẫn nội dung. Sống với chữ và làm mới thơ, hình như là mục tiêu mà ông theo đuổi suốt cuộc đời. Tiết tấu thay đổi, cách và lối đọc thơ cũng vì thế mà đổi thay.
tôi về nghe.gió mách nỗi buồn xưa
bướm gáy.gió mùa đã cũ
ngày chưa qua.mưa lũ cũng tràn theo...
(Đêm Treo Trên Tờ Lá Rách)
Đẹp nhất là hoa, sinh động hơn cả là bướm, thế giới thơ ca mà thiếu đi cánh bướm, cành hoa thì nhàm chán biết là bao. Thơ của thi nhân mà thiếu một “vệt son tươi” thì thiếu đi một cái cớ để làm thơ của kẻ thất tình. Phạm Công Thiện chỉ vì tiếng cười và bóng một thiếu nữ áo vàng thấp thoáng ở sân chùa mà phải động tâm, hé cửa nhìn xuống, tịnh thất khép lại phía sau. “Vệt son tươi?” nào đã đi vào hoàng hôn của thế giới thi ca của Huy Tưởng khiến ông phải:
trái đất có chìm
xin em
cố giữ trăng im trong hồn
anh sẽ chạm trổ hoàng hôn
chiều lam tất tả.đêm dồn dập.xanh...
(Chạm Trổ Hoàng Hôn)
Hay
tay hoa nhuốm nụ.dương cầm láy hương
nắng ươn ái ngủ trong vườn
xưa.chung gối mộng.ngậm hường tìm nhau...
(Tay Hoa Nhuốm Nụ)
trời xanh.
xanh rất nhu mì
đồi nghiêng.cỏ mọc rậm rì gót chân
về trong
tiết nhịp tình nhân
lần đầu.anh thấy thiên thần...bay lên!
(Tiết Nhịp)
------------------
ĐỌC THƠ HUY TƯỞNG: ĐÊM VANG HÌNH TIẾNG CHUÔNG
Phan
Tấn Hải
Tất cả đều là lục bát. Đa số trong tập là lục bát bốn dòng, có khi ngắt dòng câu lục hay câu bát để thành các dòng hai chữ với bốn chữ. Và xen trong các dòng thơ, thỉnh thoảng là các dấu chấm. Đối với thói quen làm thơ của Huy Tưởng, các dấu chấm là mới, nhưng thơ lục bát ngắt dòng giữa câu lục hay câu bát là bút pháp anh đã từng dùng nhiều thập niên trước; thí dụ, bài thơ hơn nửa thế kỷ trước, nhan đề “Con đường” viết tại Đà Lạt năm 1971 cũng là lục bát, cũng ngắt dòng để có dòng 2 chữ, có dòng 4 chữ. Điều khác biệt là, trong tập thơ “Đêm Vang Hình Tiếng Chuông” ấn hành năm 2020 không có chữ đầu dòng nào viết hoa như các bài thơ thời còn ở Việt Nam. Và các bài thơ trong thi tập mới này, duy nhan đề là viết tất cả là chữ hoa, sau nhan đề là một dấu phết (‘) và xuống hàng, với toàn bài thơ đặt nằm giữa trang (centered) như bài 80 nhan đề “Phẩm Vật” nơi trang 71 của tập “Đêm Vang Hình Tiếng Chuông” (nghĩa là, cách trình bày thơ trên giấy cũng là một yếu tố thi ca, không chỉ biến đổi cách đọc mà còn biến đổi cách nhìn):
80
PHẨM VẬT
ra đi
ướt đẫm tiếng kình giữa trưa
khi về
trú dưới hiên chùa
nhặt được chiếc bóng
ai
vừa bỏ quên!
Tất
cả các bài thơ trong tập “Đêm Vang Hình Tiếng Chuông” đều trình bày tương tự và
có khi biến thể nhiều câu hơn, nhưng cũng ngắt dòng như thế. Thói quen của
tôi khi đọc thơ là ngưng nơi các dấu chấm câu, và nơi các xuống dòng. Do vậy,
âm vang mỗi bài thơ mỗi khác. Nhưng có một gợi mở của tác giả Huy Tưởng
cho thấy tất cả các bài thơ đều mang hình các dòng dài ngắn khác thường như thế,
và có lẽ đó là “hình tiếng chuông” như thi sĩ muốn gợi ý – có lẽ.
Tôi có kỷ niệm nhiều với lục bát. Thể thơ tôi học đầu tiên nơi trung học đệ nhất cấp (bây giờ gọi là trung học cơ sở) là lục bát. Ngôi trường lúc đó mang tên Trần Lục ở Tân Định, trong các lớp đệ thất, lục, ngũ, tứ (bây giờ là lớp 6, 7, 8, 9) dạy văn là do hai cô giáo: cô giáo Oanh (vợ thầy Giáp) và một cô giáo tôi không còn nhớ nổi tên, gần đây mới hỏi bạn Trần Văn Nhy được nhắc rằng cô này tên Lan. Những tác phẩm lớn là do cô Oanh dạy, như Bích Câu Kỳ Ngộ (thi tập thế kỷ 18 này dài 678 câu thơ lục bát) với Lục Vân Tiên (thi tập thế kỷ 19 này dài 2082 câu thơ lục bát), dĩ nhiên là dạy tổng quan và trích đoạn. Cô giáo Lan dạy bọn học trò chúng tôi làm thơ lục bát trong năm đệ lục. Thực sự ca dao, tục ngữ đã học từ thời lớp đệ thất đã có thể thơ lục bát rồi, nhưng đọc và nghe vậy thôi. Sau này tôi quên bẳng đi tên cô giáo Lan, và khi nhớ về thể thơ lục bát chỉ nhớ rằng có một cô giáo trẻ, gầy, mặc áo dài trắng (dĩ nhiên, cần phải nhắc, áo dài thời xa xưa không phải kiểu cách tân như thế kỷ 21 bây giờ). Nghĩa là, thướt tha. Tôi cũng không nhớ nổi khuôn mặt cô giáo Lan, không hình dung nổi mắt phượng hay tóc chấm vai thế nào. Chỉ nhớ rằng, một cô giáo mặc áo dài trắng dạy mình làm thơ lục bát, và từ đó thế giới thi ca hiện ra trước mắt tôi, một vùng trời trắng xóa và dịu dàng.
Bây giờ đọc thi tập “Đêm Vang Hình Tiếng Chuông” của Huy Tưởng, tôi nghiệm ra rằng thơ lục bát tượng hình và lãng mạn hơn các thể thơ khác, kể cả các thể loại thơ tự do hay tân hình thức. Dĩ nhiên, bạn có thể nhớ ằng thể thơ hài cú của Nhật Bản, với 17 chữ ba dòng cũng có thể trình bày như hình tháp chuông hay những gì tương tự. Nhưng chỉ có thơ lục bát của Việt Nam mới có tiếng nói của người thiếu nữ, muốn ngắn thì hai dòng, muốn thướt tha hơn thì bốn dòng hay tám dòng, và muốn cho thành tình hận giai nhân thì cho dài thành 3254 câu như Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Nói về tượng hình, có thể thấy rằng thể thơ 5 chữ hay 7 chữ trông như nhiều nam tính, thẳng thuôn đuột, không có vẻ thướt tha áo dài. Thơ lục bát là thuần Việt, nhưng chỉ mới xuất hiện có lẽ từ thế kỷ 15. Có thể gợi nhớ một bài thơ của Lý Thường Kiệt (1019 – 1105), vị tướng nổi tiếng vì bình Chiêm, phá Tống. Khi Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến ở sông Như Nguyệt, sử ghi rằng quân nhà Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc thủng chiến tuyến quân Đại Việt tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp thời phản kích, đẩy lùi quân Tống. Lý Thường Kiệt khích lệ tinh thần quân Nam chiến đấu bằng cách nửa khuya cho người nấp trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát (thuộc địa phận sông Như Nguyệt, khúc sông Cầu, huyện Yên Phong, lộ Bắc Ninh, nay là huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh) đọc bài thơ 4 câu thất ngôn, nhan đề "Nam quốc sơn hà" như một tuyên ngôn độc lập. Đó là một lựa chọn của tướng quân họ Lý, nhưng cũng là một cân nhắc của người sắp ra trận: thể thơ nào gươm giáo cung tên nhất?
Hiển nhiên, lãng mạn là thơ lục bát Huy Tưởng, nơi thi tập mới của anh rất mực trầm lắng, nơi nhiều bài thơ trình bày trên giấy như hình âm vang bay lên giữa trời từ chuông, có khi âm vang theo dòng dài ra và rồi có khi thu vào ngắn lại, và đôi khi thêm dấu chấm giữa dòng để làm chậm lại các suy tưởng, như dường để làm âm vang trầm lắng thêm. Như trong bài thơ 128, nhan đề "Tìm Nhau" trang 106, hình quả chuông hiện ra trên giấy, nhưng không giục giã, không vội vàng, và rồi chìm vào tịch mịch:
128
TÌM NHAU
cóng buốt hồn rêu
vỗ đêm tĩnh tịch
vỗ chiều.chiều dâng
tìm nhau.ủ ấm ngày đông
đất trời lặng lẽ
xanh.
không nói gì!
Trong khi ký ức thơ lục bát của tôi là hình ảnh một vùng trời áo dài trắng của một cô giáo tôi đã quên tên, phải hỏi bạn học cũ mới được nhắc, và chỉ là một màu trắng trong trí nhớ, không cả một chút nhớ gì về khuôn mặt. Những bài học về thơ lục bát không nói gì về tượng hình của chữ, nhưng có lẽ ông bà mình khi soạn ra thể thơ lục bát là đã có sẵn những khuôn hình ảnh của các thiếu nữ hát quan họ, mặc áo tứ thân trong các lễ hội. Thử hình dung, cứ câu 6 chữ rồi tới câu 8 chữ, trông y hệt như hình ảnh cô gái mặc áo tứ thân, hay là hình ảnh ông bà mình gọi là thắt đáy lưng ong. Không hề thẳng đuột như thơ 5 chữ hay thơ 7 chữ. Có phải, thể thơ lục bát hình thành từ những tiếng thì thầm của những cặp tình nhân thời tiên-rồng, hay thời Lý-Trần, hay thời Lê-Nguyễn và vân vân?
Vâng, nữ tính có thể nhìn bằng mắt: thơ lục bát chính là hình ảnh thắt đáy lưng ong của các thiếu nữ nhiều thế kỷ trước. Vâng, lẳng lơ có thể nghe bằng tai: thơ lục bát là tiếng sáo trầm bổng của chàng Trương Chi ngập ngừng nhắn gửi nàng Mị Nương. Như trong bài thơ 147, nhan đề “Chạm Trổ Hoàng Hôn” nơi trang 115 trong thi tập mới của Huy Tưởng:
146
CHẠM TRỔ HOÀNG HÔN
trái đất có chìm
xin em
cố giữ trăng im trong hồn
anh sẽ
chạm trổ hoàng hôn
chiều lam tất tả.đêm dồn dập xanh…
Khi chúng ta nói rằng thơ lục bát Huy Tưởng trình bày trông có khi như áo tứ thân (dù là áo tứ thân cách tân hay truyền thống), không có nghĩa rằng thi sĩ đã tìm cách bước rời dòng sông thi ca quê nhà. Thơ Huy Tưởng là những gì rất đậm hồn dân tộc. Có khi thơ anh nghe như rất mực ca dao. Có thể những cách ngắt dòng và chen dấu chấm giữa dòng là một cách Huy Tưởng muốn làm khựng dòng tâm thức độc giả để anh tự che giấu những nỗi buồn bất khả tư lường của riêng anh? Tôi không biết. Tôi đọc thơ Huy Tưởng, cảm nhận thơ anh với những tà áo trắng trong ký ức thi ca riêng của mình, và nhìn thơ anh với ánh sáng của những chiều nắng quê nhà còn lưu giữ trong tim mình.
Và đôi khi tôi giựt mình, khi như dường thấy lại một bờ ao trong Xóm Chuồng Bò nơi một thời tôi trẻ thơ quậy phá. Trong bài thơ số 12, nhan đề “Nghĩ Ngợi Trên Bờ Ao” nơi trang 21, trong thi tập “Đêm Vang Hình Tiếng Chuông” của Huy Tưởng, một hình ảnh bờ ao được kể lại, qua thứ tự lục bát truyền thống, chỉ khác là thêm dấu chấm giữa ba dòng đầu:
12
NGHĨ NGỢI TRÊN BỜ AO,
tôi về khóc suốt chiều hao.hụt chiều
một con nhái chết.phất phiêu
làm sao thấu được tiếng kêu sông hồ?!
Thơ Huy Tưởng buồn nhiều hơn vui. Chúng ta dễ dàng gặp các hình ảnh “chiều tà, bóng chiều, xuống đêm” trong thi tập mới của anh. Những hình ảnh thường gặp nơi quê hương mình như “thổi lửa, bếp lò, gọi đò” được anh tái hiện trong thơ một cách rất là sầu muộn. Nỗi buồn trong thơ Huy Tưởng như dường làm lạnh buốt cả trang giấy. Độc giả có thể cảm nhận như thế khi đọc bài thứ 28, nhan đề “Khản Tiếng Gọi Đò” nơi trang 33 của thi tập:
28
KHẢN TIẾNG GỌI ĐÒ,
thổi cho ngọn lửa hồng trên bếp lò
dỗ mình.côi cút bụi tro
nghìn năm khản tiếng gọi đò.lạnh tanh!...
Tuyệt
vời của thơ lục bát là thơ tình. Vậy mà phải mất nhiều năm tôi mới thấy như thế.
Thời tôi mới học thơ của những năm trung học đệ nhất cấp, lục bát được
nhìn qua lăng kính rất mực nghiêm nghị. Như dường tình yêu phải là cấm kỵ.
Ngay cả khi hình dung về cô giáo Lan, người dạy lũ nhóc chúng tôi làm thơ
lục bát, hình như cô rất ít cười. Trời ạ, có một lần cô giáo Lan bật khóc vì bị
lũ học trò quậy phá quá (tôi không nhớ, có phải cô hay không, nhưng tên bạn
Nhy Trần kể là đúng cô Lan bật khóc giữa lớp vì bị lũ nhóc quậy phá). Lớp
học thời đó nghiêm nghị tới mức, về sau tôi nhớ mãi hai dòng trong Lục Vân
Tiên khi nhân vật chính không sợ lũ cướp đao kiếm đầy mình, mà chỉ sợ cô
thiếu nữ con nhà lành bước ra trước mặt mình: “Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
nàng là phận gái ta là phận trai…”
Trong khi đó, nơi một chân trời khác, thơ tình Huy Tưởng lãng mạn mà không hề lẳng lơ, nghiêm nghị mà rất mực thiết tha, chia cách mà nỗi nhớ rất gần… và thương em tới nổi nhìn thấy cả thế giới cỏ cây đang tự trầm. Như trong bài 150, nhan đề “Cớ Sao Cây Cỏ Tự Trầm” nơi trang 117 của thi tập mới:
150
lời ve giọng bướm.lưng trời
mây bay xa quá.núi đồi phân thân
em về.đẹp rất từ tâm
cớ sao cây cỏ tự trầm.đêm qua?!
Huy
Tưởng làm thơ và nổi tiếng từ trước 1975, do vậy anh có giao tình với nhiều người
trong văn giới. Nơi trang 147 của tập thơ “Đêm Vang Hình Tiếng Chuông” kể
về chuyện tới thăm thi sĩ Nguyễn Đức Sơn. Vào tháng 3/2019, được tin nhà
thơ Nguyễn Đức Sơn đột quỵ, Huy Tưởng và một số bằng hữu tới thăm Nguyễn Đức
Sơn tai rừng Phương Bối, B’lao. Lúc đó, sức khỏe Nguyễn Đức Sơn suy kiệt, á khẩu, mất
khả năng nhận thức, chốc chốc hú gọi inh rừng... Một số bài thơ từ trang 146 được
xem như từ biệt, vì Huy Tưởng biết rằng khi trở về Úc châu là sẽ không bao
giờ gặp lại Nguyễn Đức Sơn nữa.
Sau đây là bài thơ 189, nhan đề “Vài Bi Khúc Chia Biệt Thi Sỹ Nguyễn Đức Sơn” nơi trang 146, Huy Tưởng viết:
189
VÀI BI KHÚC CHIA BIỆT THI SỸ NGUYỄN ĐỨC SƠN,
đêm đêm chao bóng.viết lời chiêm bao
bay nhảy như chú cào cào
búng chân dấy động.hú gào hư không
vì mình là sao.trên rừng
khuya hôm nhấp nháy soi lòng quạnh hiu
một đời vạm-vỡ-cô-liêu
phất tay.húc bóng.ráng chiều rưng rưng…
nằm đây
cô biệt núi rừng
nghêu ngao phi lạc.tầng tầng gió mây…
Huy
Tưởng có vẻ như không thích tự nói về anh. Trong thi tập “Đêm Vang Hình Tiếng
Chuông” không có phần tiểu sử tác giả, chỉ duy có phần Cùng Một Tác Giả,
ghi các tác phẩm anh xuất bản từ 1968 tới 2020, phần lớn là thi tập và một
số bản dịch. Tuy anh kiệm lời nơi đây, một số tiểu sử nới khác ghi rằng Huy
Tưởng tên thật là Nguyễn Ðức Hiệp, sinh năm 1942 tại Tam Kỳ, Quảng Nam, làm thơ
và nổi tiếng từ trước 1975, hiện cư ngụ tại Úc châu.
Trong thi tập này, bài cuối cùng là anh tự nói về anh, một cách rất mực khiêm tốn, qua bài thơ 197, nhan đề “Tiếng Lời Ít Ỏi” viết như sau:
197.
TIẾNG LỜI ÍT ỎI,
ít chữ.vụng lời
trí tâm chưa đủ như người tài hoa
nuôi lòng
tát cạn bao la
lay thức tịch lặng.âm ba đất trời!
đành thôi.
ít ỏi tiếng lời
đường mây trắng sẽ tuyệt vời
lãng du…
HUY
TƯỞNG
Melbourne,
tháng 02.2019.
Có
một lời chưa nói đầy đủ về tập thơ (vì hội họa là lĩnh vực ngoài tầm suy nghĩ của
người điểm sách): 10 tấm tranh của họa sĩ Trương Đình Uyên rất đẹp. Và đẹp
là cả 2 ký họa chân dung Huy Tưởng và Trương Đình Uyên tự họa nơi bìa sau.
Nơi bìa trước là họa sĩ Đinh Trường Chinh thiết kế âm vang thơ hình
chuông.
PTH
----------------
Vũ Thành Sơn
Trong hoàn cảnh thơ không còn được độc giả chào đón như hiện nay và nhiều nhà thơ cũng không còn mấy hào hứng làm thơ nữa, việc cho ra mắt một tập thơ với tất cả sự chăm sóc chu đáo, đẹp đẽ như vậy đã là một nỗ lực rất đáng trân trọng của nhà thơ Huy Tưởng. Ông vẫn còn nặng tình (và nặng “nghiệp”) với thơ không thể dứt bỏ. Nhưng làm sao có thể dứt bỏ được bởi thơ vẫn mãi là một giọng nói thầm, lặng lẽ cất tiếng thủ thỉ khi mọi ngôn ngữ và lý lẽ tư biện bất lực lúc con người đứng trước sự tuyệt vọng khốn cùng? Điều đó không chỉ đúng với Huy Tưởng, có lẽ còn đúng với nhiều người.
Nhưng càng đáng trân trọng hơn khi ở tập thơ mới này một lần nữa Huy Tưởng cho người đọc thấy sự cố gắng không mệt mỏi của ông trong việc làm mới thơ. Làm thơ vốn đã không dễ, làm mới thơ càng khó gấp bội, nhất lại là làm mới thơ lục bát. Lục bát vốn đã được sử dụng khai thác đến độ mòn vẹt từ bao thế kỷ, nghĩ đến chuyện làm mới thể loại thơ truyền thống này quả cần có sự dũng cảm của một Promotheus.
Giống như phở, như áo dài.
Tôi đã một lần ăn phở Bát Đàn có vị sâm. Có thể nó mới lạ với người khác, còn với tôi, chỉ là một lần đến không trở lại.
Còn áo dài?
Tôi có một cô bạn người Pháp, cô thích ăn bánh cuốn (nhưng không
ưa phở) và mặc áo dài. Cô nói với tôi mỗi lần mặc chiếc áo dài vào người, cô
bỗng trở nên dịu dàng, những chuyển động bỗng trở nên mềm mại khác mọi ngày.
Tôi nghĩ thơ lục bát cũng đem lại cảm giác tương tự. Lục bát có vẻ thích hợp với giọng bè trầm, hay một thứ melody, cất lên bên gối mỏng, dưới ánh trăng khuya, trong vườn cây đan xen cành lá hay dưới khung cửa sổ của nàng Juliet. Người ta khó có thể hát lục bát khi chân bước theo nhịp quân hành.
Vậy thì làm cách nào những nhà thơ, Huy Tưởng nói riêng, đã làm mới thể thơ này? Và liệu ông thành công hay thất bại?
Thách thức đầu tiên và cũng là to lớn, khó vượt qua nhất đối với mọi ý định làm mới thể thơ lục bát chính là nhịp điệu cố hữu của nó. Luật bằng trắc và quy định gieo vần bó buộc của thể thơ này thực sự không dành bao nhiêu mảnh đất trống cho những màn tung hứng, nhào lộn sáng tạo ngẫu hứng vượt ra khỏi cái thế cân bằng đầy tự mãn của nó.
BB TT BB
BB TT BB TB
Một luật bằng trắc và hình thức gieo vần cứng nhắc như vậy đã tạo ra thứ nhịp điệu đều đều, không đổi có hiệu quả hơn cả một liều Valium mạnh. Hãy tưởng tượng cái nhịp điệu đó kéo dài những 3254 câu! Nó làm tôi liên tưởng đến âm thanh giết người hàng loạt của chiếc xe lửa xình xịch xình xịch xình xịch xình xịch. Mỗi lần tôi phải đi từ Sài Gòn ra Hà Nội bằng xe lửa, muốn sống sót qua 32 tiếng đồng hồ kinh hoàng ấy tôi cần phải có một cái headset để nghe Evanescence hoặc Louis CK hay Dave Chappelle. Đâu phải ai cũng là một Paul Theroux chỉ ngồi xe lửa mà viết được quyển du ký lừng danh?
Vậy thì bằng cách nào các nhà thơ làm mới thể thơ này một khi không tôn trọng cái quy định ngặt nghèo đó thì không còn là lục bát nữa?
Một trong những cách thường thấy là họ thay âm bằng bằng âm trắc ở chữ thứ hai, âm trắc chữ thứ ba bằng một âm bằng hoặc ở chữ thứ năm bằng một âm trắc trong câu sáu. Ở câu tám là âm trắc thay cho âm bằng của chữ thứ hai hay âm bằng của chữ thứ bảy thay cho âm trắc. Đó là cách thông dụng, đôi khi có người táo bạo đi xa hơn bằng cách đảo lộn cái trật tự bó buộc nhưng ở một phạm vi có thể chấp nhận được mà không làm hỏng nhịp điệu của lục bát.
Vấn đề có thể trở nên nghiêm trọng hơn khi người ta thấy cái nhịp điệu lục bát đã trở thành quen thuộc đối với tất cả các lỗ tai Việt Nam đến mức mỗi lần nghĩ đến thơ, là ngay tức thì trong tiềm thức của họ đã vang lên cái thứ bằng trắc đáng sợ đó. Hãy đến một bàn nhậu, một câu lạc bộ thơ của phụ nữ, hưu trí hay xem một game show trên đài truyền hình sẽ thấy không ít người xung phong “sáng tác” thơ lục bát tại chỗ. Một điều tưởng như là khó tin này hoàn toàn có thực ở “cường quốc thơ” Việt Nam. Quá dễ làm, cho nên rất khó tìm thấy thơ hay ở thể thơ lục bát.
Nhà thơ có lẽ đầu tiên làm mới thơ lục bát ở Việt Nam, tôi nghĩ, là nhà thơ Bút Tre. Ông là người sớm đưa kỹ thuật vắt dòng vào thơ lục bát trong khi loại thơ New Formalism chưa phổ biến như hiện thời.
Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về
Hay
Dương, vật khoẻ quá cả vùng thất kinh
Cái cách vắt dòng đó tạo ra một cú ngoặt đột ngột, hóm hỉnh, khiến cho người nghe bỗng nhiên có cảm tưởng như cái âm hưởng bằng trắc của câu thơ bị xóa nhòa, tuy nó vẫn còn nguyên đó. Cái kiểu vắt dòng ấy có tác dụng như một thứ vị ngọt nhân tạo thường dùng cho những viên thuốc đắng. Thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp điều này trong những bài thơ đầy ngẫu hứng của nhà thơ Vương Ngọc Minh.
Còn nhà thơ của chúng ta, Huy Tưởng, ông đã làm như thế nào để cách tân thể thơ lục bát trong tập Đêm Vang Hình Tiếng Chuông?
Hãy đọc vài bài thơ của Huy Tưởng:
tiếng rơi trầm đục. trời cao không đành
em cười. đẹp đến mong manh
anh chưa kịp chết.đã xanh cỏ rồi!
(LỜI ĐÃ MUỘN MÀNG)
mây bay xa quá. núi đồi phân thân
em về. đẹp rất từ tâm
cớ sao cây cỏ tự trầm. đêm qua?!
(CỚ SAO CÂY CỎ TỰ TRẦM)
trăng lên. lai láng.vạn hình
khuya im róc rách lời thinh lặng.tràn
nằm nghe.mây vỡ sương tan
sao còn lận đận viết trang sơ đầu?!
(KHUYA IM RÓC RÁCH)
đêm.tôi khản giọng tru trăng
cuồng nư cắn vỡ miếng rằm.chưa lên
đất trời cuồn cuộn.mông mênh
tôi nghe vang tiếng biệt tăm.đáy chiều…
(TIẾNG BIỆT TĂM)
Có thể thấy Huy Tưởng cố gắng sử dụng những dấu chấm để tạo ra một sự khác biệt trong tiết điệu. Dấu chấm ấy, vì thế, không phải là một dấu chấm câu có chức năng cú pháp, đúng hơn nó là một dấu ngắt nhịp. Ông sử dụng dấu chấm trong thơ hệt như một cái song loan giữ nhịp cho những vở diễn trên sân khấu. Trong cả tập thơ Huy Tưởng sử dụng đôi song loan ấy ở sau những từ: ngày, chiều, đêm, khuya, đã, dẫu, hoặc sau những động từ, trạng từ và khá phổ biến là ở khoảng giữa hay chữ cuối cùng của câu tám (các bài 44, 47, 49, 52, 57, 60, 64, 65, 67, 69, 71, 73, 74, 75, 76, 79, 83, 183,…) Nhưng những dấu chấm đó tôi nghĩ không hoàn toàn là một nỗ lực nhằm chống lại sự toàn trị của âm điệu lục bát nhưng có vẻ như mối bận tâm của Huy Tưởng chủ yếu là âm hưởng và hiệu quả trình diễn sân khấu. Và như thế những dấu chấm ấy không hẳn chỉ là cặp song loan, mà nó còn là ánh đèn follow của đạo diễn ánh sáng.
Tuy nhiên, với một phương pháp ngắt nhịp cố định như vậy, Huy Tưởng đã đánh mất tính chất bất ngờ của tiết điệu và nhiều khi nó trở thành khá máy móc, cứng nhắc.
Ví dụ như ở bài thơ số 121 này:
vành khuyên ngả ngớn thêu thùa. gọi nhau
ba ngàn thế giới. trước. sau
ai người chưng cất hương màu. tình nhân?!
Nếu, giả sử, chúng ta bỏ hết tất cả các dấu chấm ấy đi thì bài thơ sẽ có bộ mặt khác như thế nào?
vành khuyên ngả ngớn thêu thùa gọi nhau
ba ngàn thế giới trước sau
ai người chưng cất hương màu tình nhân?!
Về ý nghĩa có lẽ không khác, nhưng hình ảnh, ngôn ngữ đã khoác
một sắc thái khác với nguyên tác.
Một ví dụ khác nữa, bài số 128:
tìm nhau. ủ ấm ngày đông
đất trời lặng lẽ
xanh.
không nói gì!
Hãy thử cách ngắt nhịp khác:
tìm nhau ủ ấm
ngày đông
đất trời lặng lẽ xanh
không nói gì!
Có vẻ như với cách ngắt nhịp mới này, nhịp điệu lục bát bị mất đi ảnh hưởng khá nhiều.
Thú thực tôi không mấy thoải mái với những cái dấu chấm đó, nó khiến tôi cảm thấy mình đọc thơ dưới cái gậy chỉ huy của một nhạc trưởng. Lục bát vốn đã nghèo nàn tiết điệu, nay lại thêm nhạc điệu của nó bị câu thúc lần nữa! Tôi không thích chỉ dừng lại ở giai đoạn thấy dấu (kiến tích) mà muốn thõng tay vào chợ (nhập triều thùy thủ).
Cái cảm giác không thoải mái đó tôi vẫn có khi xem tranh có những cái tựa tranh kèm theo. Chẳng hạn khi đứng trước tác phẩm Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ của họa sĩ Tô Ngọc Vân, tôi có thể liên tưởng đến một kỷ niệm gắn liền với cảm giác tinh khiết, trong trắng trong quá khứ; tôi có thể nghe thấy âm thanh ngọt lịm của một dòng suối nhỏ hay cái cổ tay nhỏ nhắn, mềm mại, như hư như thực của người con gái tôi yêu…Nhưng chính cái tựa tranh đã phần nào tác động lên cảm xúc của tôi, nó khuôn dẫn, hạn chế và không gợi cho trí tưởng tượng của tôi bay bổng, mặc dù tôi biết chắc chắn một nghệ sĩ tài hoa như Tô Ngọc Vân vẽ cô gái bên hoa huệ không chỉ là cô gái bên hoa huệ. Tôi thích cách đặt tên tranh của Mark Rothko hơn (Untitled; Mural, Section 3; No 8, White Stripe;…) hay một vài bức của Paul Klee (Colorful Lightning; Mural; Quarry;…), chúng không hề gợi ý cho người xem tranh mà chỉ để họ hoàn toàn thả lỏng trí tưởng, cảm xúc và cơ bắp trước màu, sắc độ, sự biến thiên ánh sáng… của bản hòa âm vô thanh. Vậy thì, hỡi các hoạ sĩ tôi hằng yêu quý, tôi có một ước ao, tôi có một khát khao… các bức tranh không có tựa tranh đi kèm theo.
Nhà thơ Huy Tưởng cũng dụng công không ít trong ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Ở khía cạnh này Huy Tưởng xứng đáng để coi là một nhà thơ duy mỹ. Ông tìm kiếm cái đẹp, những cái đẹp cổ điển, mong manh, điệu đà và phôi phai. Ở ông có một một mối giao cảm thâm mật với thiên nhiên, với những lời thầm thì tinh tế của mùa màng, thời gian; ông như bắt được cái tiết nhịp lặng thầm, sâu thẳm của cái tôi nhỏ bé trong bản giao hưởng trầm hùng của giòng sinh diệt bất tận. Thơ Huy Tưởng, vì vậy, không có tính đối kháng giữa con người và vạn vật, giữa cá nhân và cộng đồng; người ta bắt gặp ở đó một thế giới khoan hòa và cũng chính vì thế, tĩnh tại và lụi tàn. Huy Tưởng, nhà thơ của mộng tưởng, của côi cút bụi tro; ông không mặn mà với hình ảnh của con người cá nhân trong thế đứng kiêu hãnh, ngạo nghễ.
trái đất có chìm
xin em
cố giữ trăng im trong hồn
anh sẽ
chạm trổ hoàng hôn
chiều lam tất tả. đêm dồn dập. xanh
Về mặt ngôn ngữ, ông có nhiều tìm tòi sáng tạo không thể nhầm lẫn với ai: ngày vừa mím nụ (06); côi cút bụi tro (28); lòng chưa cổ điển. đã đau tang điền (81); đá xanh sầm sập (82), bướm gáy (83); vắt vỏng tiếng ve (100); trăng sôi nõn (105); tiếng chim thóc thách (108); cây lá chua ngoa (143);... Tuy nhiên, bên cạnh, ông cũng có những sáng tạo dẫn đến những từ khá cầu kỳ và không gợi cảm, chẳng hạn: nhịu lam (07); tiếng lam luyến (16); khuya nâu lách cách (45); sập lam (51); chiều úng nâu (62); giục lam (133):…
Hình ảnh trong thơ của Huy Tưởng có một vị trí hết sức quan
trọng, nếu không muốn nói chính hình ảnh làm nhiệm vụ truyền đi thông điệp, ý
tưởng trong thơ ông. Vì thế cũng có thể coi thơ của ông là loại thơ imagism.
Huy Tưởng có nhiều hình ảnh đẹp:
(TRƯỚC THỀM CHIÊM BAO)
(TIẾNG RẰM NAO NAO)
trắc ẩn nhánh cành
đêm vùi tro bụi lòng anh. mất rồi!
(LẬN ĐẬN CẢ MÙA XANH)
đợi khuya ráo mộng. bồng em xuyên tường…
(TRĂNG BÊN NGOÀI PHÒNG CẤP CỨU)
Từ ý tưởng “chật chội”, ông đã làm nên một bài thơ với hình ảnh ngộ nghĩnh
chật chội bước chân
nỗi buồn
chật chội
tấm thân bụi mờ
ai làm chật chội giấc mơ
đêm đêm nắn nót bài thơ. ngập lòng!
(BÀI THƠ NGẬP LÒNG)
Hãy chú ý đến tính chất đăng đối giữa chật chội có ý nghĩa vật
lý với ngập lòng với ý nghĩa ẩn dụ, trừu tượng.
Nhưng cũng như trong việc làm mới trong ngôn ngữ, ở đây Huy
Tưởng cũng mắc phải những khiếm khuyết: một hình ảnh được lặp lại nhiều lần.
Ví dụ: hình ảnh trăng vàng dưới khe.
Ở bài số 02 có câu làm sao dốc ngược trăng vàng dưới khe thì
ở bài số 188, hình ảnh đó được nhắc lại với câu nhiều khi vớt được
trăng vàng dưới khe.
(Cần lưu ý hình ảnh trăng vàng dưới khe nghe
như thể mang âm hưởng từ câu “ca dao” trữ tình Sao cô múc ánh trăng
vàng đổ đi?).
Hoặc:
quạ kêu tối sẫm cả chiều (bài số 42)
từ trong áo mộng. bước ra (bài số 10)
tôi từ mông muội. bước ra (bài số 166)
bướm gáy (bài số 83)
tiếng con bướm gáy (bài số 141)
Có vẻ như những hình ảnh đó hoạt động theo một cơ chế thuộc về
tiềm thức ngoài sự kiểm soát của ý thức; những hình ảnh được tạo ra và không có
đủ thời gian để tiêu hóa và đào thải đi trong một mật độ sáng tác, tôi nghĩ là
dồn dập.
Có thể kết luận gì về tập thơ Đêm Vang Hình Tiếng Chuông?
So với tập thơ Những Màu Âm Xô Giạt xuất bản gần đây nặng trĩu tâm trạng khắc khoải, u uất, dằn vặt; ở Đêm Vang Hình Tiếng Chuông lại là một Huy Tưởng suy niệm trước lẽ sinh diệt của vũ trụ và sự hữu hạn của kiếp người. Có vẻ như ông đã tìm thấy lối đi cho cái bóng lặng lẽ của mình trong cõi thưa hồng rậm lục này khi con người suy cho cùng chỉ là một gợn sóng lăn tăn trên mặt của một đại dương mênh mông.
bỏ chuyến. về không
nhớ thương bề bộn. đêm chong mắt thuyền!
(ĐÊM NGỦ TRÊN THUYỀN)
Chúc mừng nhà thơ Huy Tưởng!
No comments:
Post a Comment