LỐI XƯA THU THẢO
Toại Khanh
Trời đất ở đây đang
vào thu, cỏ cây đẹp đến chết người, nhưng bây giờ là tiết tháng mười, nên mới 5
giờ chiều thì nắng đã muốn tắt. Tôi ngẫu nhiên có mặt trên con phố
này vào thời điểm sáng tối giao ban ấy, để lại có dịp thấm thía một
điều hết sức bình thường mà chiều nay thì bỗng nhiên rất lạ:
Không cái gì ở đây là mới lạ với tôi hết, dù hôm nay là lần đầu tôi tới
nơi này. Mọi thứ ở đây sao mà quen thuộc đến vậy. Rồi thì như
một kẻ mộng du, tôi bật cười một mình. Có đi bao xa thì tôi cũng
không sao trốn được cái bóng của mình, có đi bao xa thì cũng chỉ là sự trở
về, sự quay lại để mà trùng phục, tái hiện (samsara)!
Chuyện đó nghe qua như
huề vốn. Ai học kinh Phật lại chẳng biết qua cái điều rất đỗi căn
bản và đơn giản đó. Nhưng tôi vừa thưa rồi, không phải tôi vừa
nhớ lại bài học giáo lý cũ, mà là thấm thía một điều từ lâu cứ ngỡ là
mình đã học xong, chẳng còn gì để bàn đến nữa.
Tôi lại bước đi trên
con phố, con đường lát đá không lưu lại tiếng chân, để tôi có
thể lắng nghe trọn vẹn toàn bộ cái gọi là âm thanh một
buổi chiều với những gió thổi, lá rơi và thảng hoặc một tiếng còi xe
từ đâu đó. Lối đi này chỉ dành cho người đi bộ. Thế là tôi yên tâm bước,
dù vẫn luôn nhớ giữ lề phải để không làm phiền những người khách ngược chiều.
Suốt mấy giờ đồng hồ chiều nay, như một cái máy được điều khiển bằng một
software cài sẵn, đôi chân và ánh mắt tôi chỉ dừng lại ở những nơi chốn gần
như giống hệt nhau: Một gốc cổ thụ xù xì, một tảng đá xanh
rêu, một dòng nước trong vắt, những cửa hiệu nhỏ xíu kiểu boutique với
những mặt hàng không thay đổi, như tranh tượng Á châu hay sách cũ.
Tôi giật mình khi nhớ
lại bao lần lang thang đâu đó, hình như khẩu vị của tôi chưa từng thay
đổi. Dù có thể đó là một nơi chốn chỉ mới đặt chân đến lần đầu, tôi cứ như
đang quay về, chỉ vì tim tôi và mắt tôi chỉ hướng về những gì quen
thuộc. Có đi đâu, với tôi cũng là tìm về chốn cũ bằng những con
đường mới. Như chồn nhớ hang, như hổ nhớ rừng, trẻ con nhớ mẹ, viễn
khách nhớ quê. Thế giới này có rộng lớn bao nhiêu cũng mặc, cái
quan trọng là cảnh giới của riêng tôi ra làm sao. Tôi có thể
nhìn thấy nó qua bao nhiêu điều gợi ý, và bản thân nó có đủ để tôi
vươn khỏi đầu cây ngọn cỏ để tới được trời xanh hay không. Không từng
bỏ thời gian để nhìn lại cảnh giới nội tâm chính mình,
cõi sống của mỗi người có thể chỉ quẩn quanh trong một bể cá kiểng.
Trong một thoáng phiêu
linh tôi bỗng thấy mình chẳng còn là một du sĩ ta bà như vẫn tưởng,
mà chỉ là một chú cá hồi (salmon) đang giã biệt trùng khơi để một
mình làm chuyến ngược nguồn về lại nơi chốn mình đã phôi sinh từ bao đời
kiếp. Tôi cũng nghe đâu đó trong sâu thẳm tim mình nỗi niềm hoài quận
của một người Do Thái điêu linh đang từng bước trở
về miền đất Hứa của riêng tôi, như tôi đã hứa với chính mình,
chứ không phải một đấng cao xanh nào hết. Phải mà, Bồ-tát hay không Bồ-tát thì
ai lại chẳng có một cõi miền để quay lại. Có điều rằng cõi miền ấy là đâu để
một hạt cát hóa thân thành Phật hay tiếp tục vần
xoay trong biển đời miên viễn. Thì ra tôi chỉ là những gì chính mình vẫn hoài
vọng và chốn đi về của tôi cũng chính là phương trời mình vẫn đau đáu
ngoái nhìn. Một con cá hồi, một người Do Thái… Ai cũng chỉ là chừng đó mà thôi!
Tôi nhớ từng đọc
ở đâu đó câu nói này: Hãy cho tôi biết 5 điều anh thích nhất và ghét
nhất, tôi sẽ cho anh biết con người của anh ra sao. Con số 5 đó không
lớn, nhưng theo tôi, hình như nó cũng tạm đủ để phác họa một con
người cùng cảnh giới lai vãng của anh ta.
Nói vậy, nhưng nhiều
khi chẳng cần đến con số 5 ấy để mà hiểu một người hay một chuyện. Trong
vùng tâm tưởng lan man, tôi chợt như nghe lại bên tai mình
một câu chuyện trẻ con ai đó mới kể chiều hôm qua, để rồi phải giật
mình khi nhận ra rằng nơi chốn để tôi quay về bây giờ phải
là ở đâu.
Thằng bé Marlon 4 tuổi
trong một bữa điểm tâm đã càu nhàu với mẹ:
– Con chẳng khoái cái
thứ phô-mai Emmentaler này tí nào, gì mà nhiều lỗ như tổ ong đấy mẹ ạ.
Bà mẹ biết rõ cu cậu
chỉ thích kiếm chuyện, nhưng vẫn ôn tồn, dỗ dành:
– Mẹ biết, nhưng sáng
nay nhà mình chỉ còn một thứ phô-mai này thôi. Con chịu khó một tí
đi. Thôi thì thế này, cứ ăn hết phô-mai còn mấy cái lỗ trên đó thì chừa
lại.
Thằng bé loay hoay một
lát, rồi cũng chén sạch miếng phô-mai vì không biết phải làm sao để chừa
lại mấy cái lỗ!
Con đường lát đá
trên con phố cổ buổi chiều cứ lặng câm không bật lên một tiếng
động nào, nhưng rõ ràng tôi vừa nghe thấy mồn một từng
bước trở về của mình trên một vùng đất hẹn:
“Đường dài ngựa
chạy biệt tăm
Người thương có nghĩa…trăm năm cũng về” (Ca dao)
Nhưng Rồi
Có Những… Toại Khanh
Có
những cuộc lên đường là sự trở về quê cũ chốn xưa, cũng có những cuộc đi đúng
là hành trình tìm về cõi lạ. Có những chuyến lên đường như là cuộc vận động để
mình sống hơn, khỏe hơn, đẹp hơn. Có những cuộc lên đường là sự tìm về với bóng
tối quạnh hiu, chỉ khiến mình gầy yếu và hao tổn sinh lực…
Có
những sự ngồi yên là tĩnh tọa để vào sâu, lên cao, đi xa. Kiểu ngồi khi đó như
dáng núi, đá tảng, như voi đứng, cọp nằm. Cũng có những thời khắc ngồi yên chỉ
là sự ở lại với đôi chân bất lực, với một góc buồn không sao trốn thoát. Ai lúc
này cũng có dáng ngồi như tượng vỡ gỗ mục, kiểu ngồi của đá nát vàng phai…
Có
những nỗi buồn cứ như thuốc đắng, làm người ta vững vàng già dặn hơn. Nổi buồn
càng sâu, sự trải nghiệm càng lớn. Và dĩ nhiên cũng có nỗi buồn giống hệt thuốc
độc, khiến người tan nát can tràng qua từng phút gậm nhấm nỗi đau.
Có
những niềm vui là thảo nguyên ngút ngàn hoa cỏ cho lòng lành tung tăng, niềm
vui càng lớn thì con người cũng lớn theo để ra bậc hiền nhân. Có những niềm vui
chỉ là tên gọi khác của tục lụy, vui mà chứa mầm đau, như mật ngọt trên lưỡi
dao hay sắc màu trên mình rắn độc.
Có
những cuộc chuyện trò là lời tri tâm của những người tri kỷ thông tuệ, nhất tự
thiên kim và một phút cạnh nhau có khi bằng mười năm đọc sách. Lại cũng có những
cuộc chuyện trò vô nghĩa như tiếng côn trùng hợp tấu trong đêm, như tiếng muỗi
bay báo trước một cái gì bất ổn.
Có
những sự im lặng là lối sỏi dẫn vào thiền thất sơn động. Đó là sự im lặng của
người có nhẫn, có xả, có trí, có bi. Có những sự im lặng chỉ là cách đồng lõa với
vô tri gỗ đá, với vô cảm lạnh lùng. Không phải ai cũng hiểu được và có được sự
im lặng lợi mình, lợi người. Phật giáo Bắc truyền gọi đó là sự im lặng của tôn
giả Tu Bồ Đề, của nhị tổ Ca Diếp. Phật giáo Nam phương gọi đó là niềm thinh lặng
của Vô Tướng Tâm Giải Thoát.
Có
những sự chia xa chỉ là tạm biệt, đi mà có hẹn về. Xa kiểu đó tuy xa mà gần. Có
những cuộc chia tay là vĩnh biệt, là đi không nghĩ đến lúc về, quay đi không
mong có lúc nhìn lại. Xa nhau kiểu này đúng là nghìn dặm thiên nhai, là nghìn
thu vĩnh quyết. Trong đạo hay ngoài đời, chỉ cần biết cái gì cần tạm biệt hay
vĩnh biệt, hình như chẳng còn gì để nói thêm.
Có
những sự bày tỏ là chia sẻ, trao tặng báu vật. Cũng có sự bày tỏ chỉ là buộc
người phải ăn trái đắng, uống độc dược. Biết chọn cái để cho và biết lựa món để
nhận hình như cũng đủ là phép sống ở đời.
Có
những thứ chỉ đọc hay nghe một lần cũng đủ khiến kiếp này không là vô nghĩa. Có
thứ dẫu đọc hay nghe một đời cũng chỉ là đếm lá trên non.
Có
những sự kết hợp tuyệt vời đến mức không thể tốt hơn, không còn cách nào khác
hay hơn nữa. Lại cũng có những cuộc kết hợp chỉ là chắp vá tật nguyền, sai nồi
lộn nắp, chỉ khiến người trong cuộc thêm đau.
Từ đó, có những cuộc tình như đến từ vô lượng tiền thân, tìm thấy nhau giữa biển người dễ dàng như đã hẹn.Và nói như một người, có những cuộc tình không là trăm năm!
Vài lời
phụng hiến - THẾ HUYỀN
(Mưa
Hà Nội cũng dài lắm đấy, dù không kéo dài ra đến mấy ngày nhưng cũng đủ làm cho
lòng người bâng khuâng khôn xiết tả. Nhớ Huế, nhớ núi Ngự, sông Hương, nhớ cả
người ẩn sĩ tự ví mình như còng già bỏ tổ, lang thang tìm được bài viết của Thế
Huyền, hòa nhịp trong giòng cảm xúc vô biên. Cám ơn ai!)
Đằng
sau âm vọng thi từ, vẫn còn khoảng mênh mông ý tứ cho mỗi riêng lòng hỏi
tâm cảm nhận. “Bút ta cùn thơ không còn ngọt nữa”, người thơ tâm đạo Triều Tâm Ảnh
hòa vào “Cửu niên diện bích”, âm thầm tình Sơ Tổ hôm nao…
Mưa
Huế thường kéo tôi về với dòng cảm xúc, lúc miên man, lúc lơ đãng; có khi trào
dâng thôi thúc, ứ nghẹn muốn vỡ toang để những ý tưởng rơi rụng như mấy chiếc
lá mùa thu thoi thóp thở ngấm niềm mưa gió. Rồi vẫn chén trà, vẫn ngọn nến,
chút khói trầm thơm đượm, đôi lần thêm sự hiện hữu của ông bạn già bên kia dốc
đời ươm tình trong khói thuốc, tôi lại reo sống những tháng ngày còn lại trên nếp
nhăn nhúm vẽ ra triệu triệu đường mơ hồ trong lòng mỗi bàn tay.
Như
một thói quen mang trái tim xôn xao nghiệp dĩ, tôi thích ngâm ngợi vài dòng thơ
trong đêm khuya hay mỗi lần ủ mình bên khoảng trống trơ cuộc tìm cầu trôi nổi.
Khi thì nghêu ngao “Ta ném bút giẫm lên sầu một buổi. Xa vở bài, mở rộng sách
ham mê. Đã từng phen trèo cổng, bỏ trường về. Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo mạn”
với Đinh Hùng ; có lúc thầm chia “Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị. Yêu rừng
sâu nên khóe mắt rưng rưng. Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ. Đời lênh
đênh thu cánh nhỏ bên đường” cùng Tuệ Sĩ; lần thì cao hứng với cõi thơ Huyền
Không “Hôm qua mộng thấy tụng kinh. Tỉnh ra mới biết chính mình là trăng. Bao
nhiêu cát của sông Hằng. Là bấy nhiêu kiếp đã tằng tử sinh”…
Còn
nữa, nhưng có lẽ, gắn bó và đọng lại trong tôi nhiều ấn tượng nhất vẫn là Minh
Đức Triều Tâm Ảnh, bởi lẽ đó là dòng thơ đầu tiên tôi từng tiếp xúc và những
dòng sẻ chia của người đã cưu mang tôi suốt tháng năm dài đẳng đeo mấy vết
thương trầm thống.
Tình
người thôi thúc lẽ hiến dâng. Tâm đạo đưa ta về với cuộc chơi khai phóng, khai
sinh mình trong từng niệm thênh thang. Thầm tri ân tất cả những bóng hình lặng
bước qua và đọng lại trong khoảng đời tôi, vang vang qua mỗi dòng mật ngữ, như
ông bạn già hay ngâm ngợi: “Dẫu một phút tình cờ hay một giây bất chợt; Đã đi
qua là đọng lại trong đời”.
Mà
thật. Hầu như mọi thứ đều lưu tích với “Một phút tình cờ hay một giây bất chợt”.
Tình cờ ta gặp bạn, bất chợt phát hiện ra; tình cờ ta đến đó, bất chợt nối thiện
duyên; tình cờ…, bất chợt…
Thế
đó, mà tạo nên sự sống đi đến mỏi chân cũng không thể hết cuộc chung cùng. Nhờ
lắm chứ, những phút giây tình cờ và bất chợt, để ta tháo tung được hết thảy mọi
hoặc nghi bồng đeo bấy lâu nay, liễu tri toàn thể vũ trụ qua cảm nhận từ những
lời dạy, những dòng thơ văn còn ấm trào thân phận.
Cuộc
đời tôi, cuộc đời bạn, chắc chắn đã có lần cúi đầu kỉnh lạy những phút giây nhiệm
mầu đã ươm mầm cho ngày sống ấm áp và bình yên hơn. Ta không đủ sức để chống cự
với khoảng đời cô quạnh, để vượt qua nhát chém tử sinh luân, để xa lìa bao vở
bi hài kịch cuồng quay trong thinh lặng.
Vì
thế, ta cần sự dìu dắt, sẻ chia, trao gởi của những cõi lòng biết lắng nghe tiếng
nói tha nhân bằng tình thương của con sông độ lượng. Ân này bao la lắm, “đến
bao giờ trả hết nợ con sông?”.
Trong
những tháng ngày nhọc nhằn giữa cuộc đi về trầm nịch quặn đau, tôi đã bắt gặp
những tâm hồn vớt tôi lên từ bóng tối miên trường, suốt mạch sống còn lại, dễ
ai quay mặt lãng quên. Dòng thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh là một vọng hình như thế.
Xin
lắng nghe lời nhận xét của con người từng làm xốn xang bao thế hệ, từng mở ra
những cuộc hội ngộ bàng bạc giống nòi trên câu chữ hùng tráng xác xơ, Phạm Công
Thiện: “Đọc đi đọc lại mấy lần mấy chục bài thơ của Triều Tâm Ảnh, tôi có linh
cảm rằng thi sĩ đang cưu mang một Tính Mệnh lớn lao mà có ít thi sĩ Việt Nam
nào hiện nay có thể đủ trầm lặng đạo lực cưu mang nổi. Không phải vì những tên
tuổi bi tráng như Nietzxche hay Rimbaud mà tác giả yêu thích đã khiến tôi nhận
xét như trên, mà vì chính những gì loáng thoáng đằng sau những dòng thơ kì diệu
của thi sĩ.
Thi
nhân ở đây đồng thời cũng là một đạo nhân. Thi nhân đang đứng giữa trung tâm điểm
cơn bão tố địa cầu, đứng giữa Triêu dương của Đông phương và Tịch dương của Tây
phương, đứng giữa Tây nhập và Đông khởi của Hoa Nghiêm Kinh… Như những đám mây
trôi nổi ở vùng mặt trời lặn, tôi xin gởi đôi dòng linh cảm này về thi sĩ và tạ
ơn được đọc những bài thơ sâu sắc tuyệt đẹp ít thấy trong thi ca Việt Nam hiện
đại…”.
Không
phải vì một lẽ ngẫu nhiên mà nhà tư tưởng từng chắp tay xin làm con kiến lặng
thầm bò khiêm tốn trên những trang kinh huyền nhiệm này phát biểu nên cảm xúc
như thế. Đi vào thế giới thơ Triều Tâm Ảnh, ta như được sống ơ hờ miên man trên
từng nhánh sông ở một khúc đời xao động hay êm trôi nào đó trong kiếp đời lắm
cuộc xuống lên. Và bao giờ cũng thế, chung cuộc, người thơ cửa Không đều mong mỏi
nhân loại mở rộng vòng tay yêu thương, độ lượng để tiếng khóc than không còn tỉ
tê hiện hữu trong gió sớm mưa chiều:
Thì xin người tha thứ lỗi lầm nhau
Sống bao lăm mà hận thù oan trái mãi
Dẫu cát bồi sông lỡ cũng qua mau”
(Cát
lòng ca nguyện)
Chỉ
một vài gởi trao nhẹ nhàng thân ái đó thôi cũng đủ khiến cho con tim mỗi chúng
ta không khỏi một lần tự hỏi về thái độ sống của riêng mình đã chân thành hay
chưa. Nếu chưa thì hãy dang rộng cánh tay đón chào những tâm hồn trở về nghỉ
ngơi sau vết thương đời rát bỏng như chàng Trịnh từng bảo “Tôi xin làm quán đợi,
buồn chân em ghé chơi”, để sớt gởi nhau chút nồng hơi bi nguyện “Ngọn lửa ấm
hãy ngồi hong chút đã. Ngọn lửa này có tự trái tim nguyên” (Cát lòng ca nguyện).
Sự hốt
nhiên của bậc Chân Nhân mở ra trang thơ-trang lòng lời tự tình thân mật khiến
trong cuộc đi về chúng ta dễ dàng chạm va những ý tưởng đồng cảm, ước ao được dựng
xây cõi yêu thương để nơi đó, hạnh phúc xoa dịu khối đau, nắng lên xóa vết sa
mù, đôi mắt độ lượng cùng nhìn về một hướng khiến gió bụi phù vân không rát bỏng
nét hoen gầy giữa mọi luồng ảo tưởng.
Người
thơ Triều Tâm Ảnh lặng lẽ đi qua vùng bão tố, lặng lẽ dừng chân nghe ngóng, lặng
lẽ truy tìm sự hoạt dụng chân tâm, lặng lẽ truyền trao hơi ấm. Sự lặng lẽ nhân
bản để dòng thơ lưu xuất thầm trao cho bao thế hệ định hình cuộc hành trình trở
lại nhìn tận mặt cội nguồn xưa.
Con
đường đó đầy thử thách, lắm phen đi ngược với tất cả những tri kiến lầm sai lâu
ngày hun đúc nuôi sống tâm thức con người, đưa tha nhân trở lại đối diện với
chính mình cho đổ vỡ nguồn cơn vốn “Đầy hai bờ, tri kiến dựng trơ gan”. Ta trở
lại cuộc đời sau trò chơi trốn tìm mệt lã, để phút giây hãi hùng “Điện Phật
khuya thiếu dầu, leo lét tỏ. Em đăm chiêu, sầu, đêm tối ba mươi”.
Nhưng
như thế không có nghĩa là cúi đầu điếu văn niềm tủi hận, ta lại quay về, lục
soi, tìm kiếm, đào bới trong vi trần mù tri, khơi giữa đống tro tàn xôn xao
chút lửa thắp sáng buổi hồng hoang để thênh thang hát ca trên đạo lộ lao đao chối
từ thất bại.
Nỗi
tủi thân có lúc lại trở về giằng xé tháng ngày xanh, bởi Bảo Sở ngay đây mà cửa
vào còn mơ hồ mờ mịt, âm ba trần thế còn đoanh vây hồn non trẻ. Cuộc tầm cầu
chân lý là trận chiến nội tâm không sát-na ngưng nghỉ, lời Cha xưa vẫn còn đó
mà lắm lần con quờ quạng giữa đôi dòng đục-trong.
Ta vẫn
cứ bảo lòng mình phải học hỏi với vị đại sư mang hương vị và âm sắc đớn đau, phải
hạnh phúc trước sự thất bại của ý thức, phải bươi mốc kiếm tìm trong khoảng hồn
những rệu rã để khai sinh mầm sống tươi nhuần.
Hành
trình của Thế Tôn cũng như thế, đầy ắp ưu tư, đầy ắp giằng xé để một hôm dòng
máu chảy trong Ngài là dòng máu chung của cộng đồng nghiệp lực kêu gọi bước mau
ngấm hòa con đường sáng; hơi thở Ngài là hơi thở chung chia niềm đau sự sống để
đồng cảm và dìu dắt mọi loài thắng lướt bộc lưu, để mẫn hoài truyền trao thông
điệp “Giáo pháp của Như lai chỉ có một mục đích duy nhất: khiến chúng sinh thấy
khổ và con đường thoát khổ”.
Thế
hệ chúng ta lại tiếp tục nhắc nhau nẻo về thiêng liêng đó, để mỗi lần còn thấy
tủi thân, là mỗi lần ta còn khát khao đi đến tận cùng con đường đã chọn:
Ta bên trời, thức trắng với miên man
Sanh tử xoáy sâu vào lòng tim máu đỏ
Nhìn hương đăng, tượng Phật, tủi vô vàn”
(Kỷ
niệm chúng ta)
Cuộc
ấm áp trong thơ Triều Tâm Ảnh cho ta những ánh nhìn thân thương với hồn sống
khiêm hạ mà quảng đại đến lạ thường. Những con chữ gần gũi và gắn bó tựa hồ như
người thơ đang ngồi rất gần, cạnh chúng ta, với nụ cười ẩn sĩ, nghiêng mình
trao lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị sống thật chân.
Đã lắm
lần rồi, ta cùng nhau rưng rưng hoang vu niềm khổ lụy khi thời gian cằn cỗi kiếp
nào xa xôi chợt quay về chỉ trong nửa niệm phân ly. Nơi đó, ta từng thảng thốt
muốn chối từ nỗi bồng phiêu đẳng đeo con mệnh số trớ trêu ngây dại “Tôi đã ra
đi tự khối tình chân thật. Yêu trần gian mà chưa dám cầm tay” (Bày tỏ I); cũng
nơi đó, ta từng nghi hoặc trước mọi sự biệt phân “Nói ai hiểu mà có còn ai hiểu?
Tay nắm tay khoảng cách rộng vô cùng” (Bày tỏ 4).
Thế
nhưng, tất cả những điều ấy không ngăn ngại người thơ thầm nhắc mình một cuộc
đi về xứng đáng với bậc Đại Trượng Phu. Đó cũng là thái độ mà mỗi mỗi chúng ta
phải sống:
Thôi nhé anh em, bằng hữu, chút tri lòng”
…
“Cố gắng sống phận đời nhỏ bé
Cố gắng thương hoài bằng chút máu trong tim”
(Bày tỏ II)
Để một
hôm hạnh phúc ngập tràn trên mỗi bước chân qua, hành trình chúng ta sẽ không
còn đơn lẻ, hơi ấm tình người lại phủ choàng trong mắt trong, tay đan tay reo
ca ngày khải hoàn Cố Quận:
Xin ăn một gã ăn mày
Cho cây hạt mưa đầu núi
Cho người một thoáng non mây”
(Chàng hát rong)
Hình
ảnh đẹp, lung linh như mật ngữ, bất khả tư nghị, vượt xa hẳn biểu tượng miêu tả
tư duy. Chàng hát rong ngã tay xin ăn lão ăn mày. Lão ta trắng tay thì lấy gì
mà cho? Còn chàng hát rong nghêu ngao với cõi tạm thì thiếu cái gì mà xin? Một
cuộc trao đổi kì thú trong duyên kì ngộ thật kì diệu vô cùng.
Gã
hát rong xin đời chút thi vị thanh thản chốn lênh đênh; lão ăn xin độ lượng cho
đi lòng cảm thông với con người biết trân quý những giá trị sống đích thực như
gã lang thang. Hai kiếp đời tay trắng, vậy đó, mà cho nhau mãi vẫn không sao hết
được gia tài vô tướng. Gia tài này đâu của riêng ai? Biết sống bao dung, tôn trọng
nhau cả trước mặt lẫn sau lưng, càn khôn đâu đâu cũng là kho diệu bảo!
Thời
gian đã dạy cho tôi những bài học đắt giá, trong đó có lời khuyên, đừng bao giờ
khinh chê một điều gì trong cuộc sống, từ lời nói giản đơn đến câu thơ văn chưa
trọn chữ vẹn dòng. Những điều trong quá khứ ta từng chê bai, a hay, bỗng đâu hiện
tại trở về như lời linh chú kéo ta lên từ ngõ thẳm quặn buồn.
Niềm
đau một thuở đã hóa thành quách vững chắc để ta không chùng bước trước mọi ngã
rẽ xác xơ; nước mắt từ ngày tang thương đã trở thành câu kinh vô lượng nghĩa
cưu mang hơi ấm miên trường; đêm thao thức thoát thai thành lời tâm sự cùng
trăng sao mở ra một bình minh ngây ngô tiếng sẻ gọi bầy trong thâm mật…
Tất
cả sẽ thành điển tích, hòa vào đại dương bao la để bên kia, nơi rừng thiêng tịch
mịch, ẩn sĩ gác kiếm ngồi nghe vị muối mặn quanh đây chan hòa lá núi, cảm chim
ngàn thuật lại chuyện đến đi:
Làm mây mùa hạ
Ôm nắng mặt trời cho cây cỏ bình yên!
Chúng tôi biết, chúng ta đã một kiếp xưa nào
Làm mấy hạt mưa ngâu
Cho ấm lòng Chức Nữ!
Nhưng cuộc đời vẫn cứ thế vần xoay
Một ngày vui sẽ tử
Một ngày buồn sẽ sinh
Ngàn năm vẫn thể phù luân
Làm con sóng lạ từ Đông hải về”
(Viết cho người tuổi trẻ)
“Một
ngày vui sẽ tử. Một ngày buồn sẽ sinh”, “Gót lữ thứ đã bao giờ đẫm mộng”, giật
mình nhìn nấm mộ hoen vàng nằm khắc khổ với tịch dương thả “Rớt tiếng quạ giữa
vô cùng khuya khoắt” (Cung thương), chút đắn đo xoay vần trong vết cũ chân
chim, và cuộc thế trôi đi với vạn mùa mông quạnh.
Trong
đoạn trường lê thê lã mệt đó, ta sững sờ trước mọi lẽ, bỗng bắt gặp ánh mắt buồn
tênh huyền diệu của mẹ trong túp lều tranh mưa về kể lể, “Nửa đêm nhớ mẹ trùm
chăn kín; Khóc một mình, ôi, chỉ một mình con”. Nỗi xót xa cấu xé, “Giọt lệ
khô như gió Nam Trường Sơn; Qua bao tuổi tác bấy nhiêu buồn” (Cát lòng ca nguyện),
mẹ hiền ơi, cuộc tìm kiếm bao năm vẫn chưa thỏa lòng con trẻ, mộng khát khao cứ
kéo con cuồng say trong kiếp mộng đăng trình. Con xin mẹ một lời thứ lỗi. Nhưng
mẹ thương vô ngần, có bao giờ trách đâu mà phải run run nghe con thú tội. Cơm
liền kiềng, cá lang cang, mẹ ơi, theo con dong ruổi hằn ghi lên lời vong lữ lẫn
vong quê, rồi vọng về ôm choàng hơi ấm mẹ, nơi trú ngụ bình an xa xưa vong ân
con mấy lượt khước từ:
Khi quay nhìn thì sương trắng đã phù vân
…
Biết bao đêm chong đèn khuya lệ tủi
Ôi kiếp người sao chỉ mãi ăn năn?
Xin Mẹ hiểu cho con mỗi khi về thầm lặng
Vì bao năm con chưa vẹn nụ cười”
(Thư gởi Mẹ)
Rồi
một hôm xa lìa phố thị về chốn am mây, đốt nén tâm hương niệm ân ngày mới và
truy điếu thương tật cuồng du sau tiếng gọi sông hồ, xao xuyến hiểu rằng “Những
lần xa, những lần gặp lại; Lỡ lầm nào đức Phật cũng từ dung” (Kỷ niệm chúng
ta).
Từ
đó, mỗi hơi thở là mỗi tiêu dao ca bồng phiêu hốt ngộ. Người nghệ sỹ cũng là vị
ẩn sỹ chân chính, thầm thương con chim cổ còn rươm rướm máu khi đến trần gian
phụng hiến gởi trao cả linh hồn. Con chim cổ rướm máu, vẫn thảnh thơi nhắn gởi
nơi đây lời tự tình buổi hoang sơ từ cao nguyên về phố thị, có tiếc gì chút sức
lực thặng dư. Tôi vẫn thích hình dung như bao lần lóng cóng… tôi hình dung… con
chim rướm máu… bóng thiền sư nhìn đời qua kẻ nắng mênh mông… “Đời đạo sĩ, con
chim trên đỉnh núi; Ngợi ca ngày nắng mới giữa mù sương”… con chim dâng sự sống
cho tiếng hót cuối cùng… “Chim rướm máu bởi hồn thơ u khoát; Rớt xuống trần như
lửa cháy tà dương”… lặng lẽ nằm chết bình an… Thiền sư vẫn ngồi… đăm chiêu… “Quả
tim đau chưa một lần bỏ cuộc; Đỉnh cô liêu ta hớp khí hạo nhiên”… lắng tai…
nghe ngóng… “Còn khoảng trời mênh mông chưa vẩn đục; Dành cho trăng, cùng giọt
lệ thanh bình”… vạn mộng quy hương… bùng vỡ tâm linh trong tiếng chim vang vọng…
rừng núi ướt đẫm sương đêm… Thiền sư vẫn ngồi… nhất điểm linh sơn… Thức vô biên
xứ nói chuyện với muôn loài bằng mật ngữ trí bi… hàm tiếu… Thiền sư cười… đồng
vọng với tiếng chim trao lời hiến tặng…:
Em đã đến
Con chim màu mạ non
Trên tàn cây già cô độc
Tiếng hát thanh trong giọt sương mai
Vọng lên từ thảo nguyên bí mật
Phủ màu xanh lên hồn
Lên lòng đời hoang vu khốn khổ…”
(Cánh chim màu mạ non và hạt bụi trắng)
Sống
trên vạn cung trầm ai thán, biết nhìn lại và dắt tay nhau qua chiếc cầu lao nhọc,
trần gian sẽ gởi lại chéo áo ta hoa hương lồng lộng thanh thản giữa buột ràng.
Rồi cuộc đời sẽ mở ra khoảng trời thênh thang để bạn, để tôi sống khoảng ngày
còn lại trong lời ca diệu nghĩa. Tạ ơn nhé, những nhục nhằn quyện bủa, đã mở ra
nguồn yêu thương đến khát khao cháy bỏng, để chúng ta biết lắng nghe và xót
thương chúng khổ, để niệm hiến dâng mãi mãi đủ đầy, để cảm ca rưng rưng với ý
thơ thấm đẫm vị đề huề. Hoài niệm ban sơ về xoa dịu vết thương trần thế. Lại tiếp
tục lên đường, xây dựng nguyện xưa còn lở dở. Đêm đã về, mưa vẫn rơi, chốn
không tịch trăng sao cùng ngủ cả, vẫn còn loáng thoáng bóng hình bước ra từ cõi
sống bao la, chấp tay thầm thì chung gởi “Cảm ơn nhé, một đời gió nổi… Thế gian
nhé, một lần xin sám tội; Quỳ nơi đây mà ôm siết con người!” (Bày tỏ I).
…
Ngôn ngữ trần gian chính thức nói lời thất bại khi bước vào mé cửa tâm linh. Đằng
sau âm vọng thi từ, vẫn còn khoảng mênh mông ý tứ cho mỗi riêng lòng hỏi tâm cảm
nhận. “Bút ta cùn thơ không còn ngọt nữa”, người thơ tâm đạo Triều Tâm Ảnh hòa
vào “Cửu niên diện bích”, âm thầm tình Sơ Tổ hôm nao…
Vườn xưa trăng cũ hạo nhiên hoa
Phất bồng chiếc lá ngùi thương cội
Chiếc bóng phù vân mấy cõi là?”
(Phù vân Du tử ý)
Một
vài khía cạnh rất mực khô khan, lại như con còng già lơ ngơ mãi hoài vẫn không
thể đi hết một phần nhỏ đại dương, làm sao sự khập khiễng trong ngòi bút quê
mùa này nói được đôi điều trao gởi của Dòng Thơ Mặc Sĩ đây?
Cố gạt
phắt những giằng co, tôi trân trọng cảm tưởng tri ân dòng thơ đã dắt tôi qua
bao mùa mưa gầm nắng quái để tiếp tục vững tiến trên nỗi khát khao uyên nguyên
quyện trong lời Kinh diệu nghĩa đi về phía mặt trời Chân lý. Cánh cửa đã mở, xin
mời bạn bước vào, hòa chung dòng chảy tâm linh và cảm nhận bức thông điệp yêu
thương cùng sự hốt nhiên của bậc Chân Nhân Triều Tâm Ảnh…
bềnh bồng cơn mộng trắng
Vỗ giọt nguồn, đưa đẩy chiếc bè hương
Ai không hiểu những nỗi đời hư huyễn
Thì nghìn trùng thân thế phải mù phương”.
(Từ độ nhổ neo)
Đêm
mưa nhớ về…
No comments:
Post a Comment