Trần Quê Hương Với Tặng Phẩm Dâng Đời - Thích Thiện Hữu -
Trần Quê Hương làm thơ như đang thở, đang nói với chính mình. Mặc dù, những áng thơ trong thi phẩm đa phần mang sắc màu tôn giáo và dáng dấp triết lý cao siêu. Nhưng, đây không phải là triết lý tháp ngà, rời xa thực tế, mà là triết lý hoá nhập, thiết thân với con người và chúng sinh vạn loại.
Đến cõi nhân gian này để vun đắp, hy hiến,
ban trao và nhà thơ Trần Quê Hương là một trong vô lượng con người như thế. Ông
đã kết giữ trái tim nguyên trinh trong cõi tâm hồng thành Tặng Phẩm Dâng Đời.
Những áng thơ trong Thi Tập, là tiếng nói
chân thành, là lời cầu nguyện tha thiết của một tâm hồn, một trái tim rung
động. Chất liệu và hồn thơ đã chấp cánh bay vào thế giới tâm linh. Nơi đó, có
bầu trời xanh huyền nhiệm, có ánh nắng trí tuệ lung linh, có những cụm mây muôn
màu, có những hạt mưa lành lạnh, có những làn gió mát đong đưa. Phải chăng, tất
cả chỉ là một phần trong muôn phần pháp giới, là tiếng thinh không khẻ gọi
trong tâm thức mênh mông.
Nhà thơ không mô tả những chuyến du hành
của người ngao du sơn thuỷ, mà cho độc giả thấy được bước khởi đầu vô thuỷ của
kiếp luân hồi và còn tiếp tục cất bước ra đi:
Tôi đi từ vô thuỷ
Gọi mặt trời đi theo
Bạn đường vui thiên lý
Trên vai túi vải nghèo (Tặng Phẩm Dâng
Đời, trg 145)
Tác giả đã không gọi mời người đời dõi
bước chân theo, không lôi kéo tha nhân sánh bước đi cùng. Lạ hơn người khác,
Trần Quê Hương chỉ gọi mời mặt trời, nhưng là tiếng gọi niềm tin, là mặt trời
hồng tỉnh thức. Rồi hành trang của người cô lữ, của kẻ độc hành là túi vải
nghèo, là lòng nhẫn nại, thong dong tự tại trên khắp nẽo đường thiên lý. Vừa đi
vừa soi dẫn lòng mình, vừa gọi mời tha nhân bằng nếp sống hiền sĩ sẳn có trong
tâm thức Việt nam:
Tôi đi từ vô thuỷ
Đến kiếp này dừng chân
Việt Nam duyên hiền sĩ
Tôi tỉnh giấc mộng trần (Tặng Phẩm Dâng
Đời, trg 154)
Người thơ đã tạm dừng chân nơi đất Mẹ Việt
nam, mảnh đất Tiên-Rồng đã sản sinh Phật Việt, đã dung hoá đạo đức ngàn đời của
quốc Tổ Hùng Vương. Non sông thiêng liêng này, đã là thánh địa mầu linh, để
muôn ngàn đoá hoa đạo đức, vô lượng trí tuệ tuyệt vời hé nụ khai mầm.
Ngọn lửa của lòng tôn kính được thắp sáng.
Khắp mọi miền sông Cữu, người thơ đêm ngày cất bước, mặc cho gai bụi cuộc đời
có làm rách nát xác thân, Trần Quê Hương vẫn luôn tỉnh giấc mộng trần, cúi đầu
mặc niệm, hát khúc Phương Tâm Ca:
Ta cúi đầu mặc niệm
Những giọt máu hồng tươi
Những trái tim đại ngã
Đã điểm tô sinh hoá
Cho hàng vạn nụ cười
Trái Tim-nguồn hơi thở
Phương Tâm Ca tuyệt vời. (Phương Tâm Ca,
trang 187)
Chính ánh mắt bi từ, bàn tay nhân ái, trái
tim đại ngã đã điểm tô sinh hoá, đã nở muôn vạn nụ cười và đã biến thành Phương
Tâm Ca tuyệt vời! Thế mới biết, cuộc sống này, vũ trụ này không chỉ có đỏ đen
tang tóc, thù hận đau thương, mà còn có dịu dàng tinh
khiết. Trước giọt sương mai mong manh trên ngọn cỏ, còn có cả cuộc hồi sinh tối
thượng. Chính trái tim nhỏ bé chứa đầy sự sống nhiệm mầu, đang lấp lánh chiếu
soi như ánh lưu ly tuyệt thế:
Ngàn trăng sao kết bạn
Suối bạc dòng nghiệm suy
Cỏ, hoa, chim, sóc, nhạn
Nụ cười hiền lưu ly (Tặng Phẩm Dâng Đời,
trg 156)
Nhà thơ xẻ chia thế giới Hoa Tạng hay Cực
Lạc Di Đà ngay trong đời sống này. Do vậy, dù nhiều kiếp có lang thang làm
khách phong trần, nhưng, thế giới thường chân vẫn lung linh chiếu diệu. Cỏ cây
đất đá, trời mây non nước, trăng thanh gió mát, suối bạc hoa tươi, đều là pháp
thân mầu nhiệm của thể tính bất sinh. Dường như người thơ muốn gọi mời mọi
người trở về sống với thế giới thanh tịnh này. Khi nào những hố sâu của đời
sống được gạt bỏ, những hẹp hòi của thế nhân được dứt trừ, những ồn ào của danh
lợi được lắng tịnh, thì con người sẽ có cơ may nở nụ cười hiền và bừng sáng ánh
minh nhiên. Thậm chí, trong vách đất am tranh, nơi sóng biển rì rào vẫn
sống với tịnh thanh chân tánh:
Thanh Tịnh Am kết tình
Ngày đêm vui tâm linh
Sáng làm thơ, dạo biển
Chiều tụng phẩm chơn kinh (Cuối Chân Trời
2, trang 197)
Ai nói nhà sư không có cảm tình? Nhà sư
thực sự đã kết tình với tâm linh, với duyên sinh vô ngã. Ngồi trong vách đất am
tranh, hay đi đến phương trời vô trụ, tâm vẫn an vui hát khúc ca vô ngã đại
đồng. Chướng ngại nặng nề không còn, não phiền nhiều kiếp bặt dứt, ngày đêm
sống với tâm linh, sáng làm thơ dạo biển, chiều tụng kinh trì chú. Mọi huyễn
hoặc trần lao dứt sạch, tuệ trí Bát nhã hồi sinh. Ô kìa, nơi cuối chân trời,
hay đến ngày Rằm tháng Tư, bổng thấy đức Phật hằng hữu trở về trên đỉnh Chân
như:
Sáng nay lên chùa dự lễ
Mừng ngày Phật đản tháng Tư
Ngày rằm thiêng liêng lịch sử
Phật về trên đỉnh chân như (Phật Về Trên
Đỉnh Chân Như, trang 206)
Ngày Rằm Tháng Tư lên chùa dự lễ, bao
nhiêu hương hoa diễm lệ phụng hiến Ta bà. Trong khoảng sát na, bổng thấy Đức
Phật trên đỉnh Chân như. Chân như là sự sống và sự sống chính là chân như.
Hơn thế nữa, niềm mơ ước của người con
Phật hay của chính tác giả là nhìn thấy mọi người và tất cả chúng sinh trở về
sống với bản thể chân như, nhất là trong xã hội ồn ào này. Trong thế giới băng
giá tình người, bản thể Chân như chính là lòng nhân ái chỉ biết ban trao mà
không cần đền trả.
Cuối chân trời ánh sáng sẽ chói ngời dương
thế. Mọi ách tắc khổ đau được khai thông, phương hồng cỏ lung linh dưới ánh
nguyệt cầm, để ngàn năm dâng tặng:
Tôi dừng chân cuối trời
Dưới lòng nguyệt thu rơi
Dâng đời bài thơ nhỏ
Dâng cả trái tim tôi
Và cả phương hồng cỏ
Lung linh hố thẩm trời (Tặng Phẩm Dâng
Đời, trg 164)
Tóm lại, toàn bộ thi tập là lời mời gọi,
là tiếng hát giữa cuộc lữ mênh mông. Đọc Tặng Phẩm Dâng Đời để trợ duyên cho
nhịp đập yêu thương, giúp con người thấy rõ ý nghĩa thiết thân của cuộc sống.
Hơn nữa, nó còn ban phát đôi cánh nhẹ nhàng, để con người có thể bay qua những
thử thách trần gian!
Trần Quê Hương làm thơ như đang thở, đang
nói với chính mình. Mặc dù, những áng thơ trong thi phẩm đa phần mang sắc màu
tôn giáo và dáng dấp triết lý cao siêu. Nhưng, đây không phải là triết lý tháp
ngà, rời xa thực tế, mà là triết lý hoá nhập, thiết thân với con người và chúng
sinh vạn loại.
Ngôn từ sử dụng tự nhiên, tha thiết dịu
dàng, đủ đầy thinh âm hình tượng. Tuy làm thơ nhưng giống như tâm sự. Chính
những chất liệu tuyệt vời này, một mặt, có công năng giữ chặt độc giả, mặt
khác, có thể giúp người đọc mở rộng cõi lòng, mở cửa trái tim trong kiếp sống
nhiệm mầu này.
Ô hay, nỗi niềm trân kính trào dâng, trái
tim rung cảm đã hoá thân cùng tác giả! Khi thưởng lãm Thi Tập này, đã một lần
hay nhiều lần, tôi có cơ may nhìn lại trái tim mình!!!
Chùa Phật Đà, Úc Châu, Rằm Trung Thu năm
Tân Mão-nhằm 12-09-2011. T.K.Thiện Hữu
SUỐI VỀ HOA NGHIÊM
Tiếng Nức Nở Nghẹn Ngào Của Đứa Con Thơ
Suối Về Hoa Nghiêm không phải chỉ là hình
ảnh thục nữ đoan trang của người con gái đôi mươi, mà còn là một tâm hồn lai
láng, một trách vụ thiêng liêng của người thiếu phụ, đã ban trao cho cuộc đời
một đứa con trai, sau này, trở thành Sứ giả Như Lai. Chính Mẹ và cuộc đời đã un
đúc, nuôi lớn người thơ bằng những hạnh phúc khổ đau, những hoang mang xót xa,
hoài nghi tuyệt vọng, những nước mắt đắng cay dâng trào và những ngọt ngào
thánh thiện.
Đầu thập niên 90, lúc còn dưới mái ấm Cao
Cấp Phật Học, Sư Giác Khang hệ phái Khất Sĩ và Sư Giác Nguyên hệ phái Nguyên
Thuỷ có hỏi tôi, đã đọc qua Thi Phẩm Suối Về Hoa Nghiêm của Trần Quê Hương
chưa? Thú thật, khi đó, tôi có đọc qua, nhưng chẳng để tâm để ý nhiều.
Gần đây, tôi được duyên lành, nhận được
Thi Phẩm này do chính tác giả gởi tặng, nay đã tái bản lần thứ 5. Tập thơ rất
đẹp, từ hình thức trình bày bên ngoài đến kết cấu nội dung bên trong.
Tôi đã dành thời gian đọc đi đọc lại nhiều
lần. Càng đọc, trái tim đồng cảm càng rung động, nhân lên gấp bội. Càng đọc,
càng có cơ hội thấu hiểu và trân quý người thơ hơn. Nhân đây, tôi xin ghi lại
một phần suy nghĩ, cảm xúc của mình, ước mong được xẻ chia với thân hữu gần xa!
Thơ của Trần Quê Hương, ngoài âm thanh,
giai điệu, ngữ nghĩa dồi dào, còn ẩn hiện nhiều màu sắc rực rỡ.
Trong Suối Về Hoa Nghiêm, hơn phân nữa nói
về trái tim thương yêu của đấng mẫu từ và người hiếu tử. Người thơ đã khéo léo
bám chặt vào tình yêu thiêng liêng của Mẹ hiền và vào sự lãng mạn của chính
mình. Đó là chiếc chìa khoá giúp ông mở tung những cánh cửa của chán nản tuyệt
vọng, của đau thương mỏi mệt để vượt thoát và thăng hoa trước cuộc tồn sinh:
Cha
chết khi tôi còn là máu
Mới
tượng hình trí não chưa gom
Mẹ
đùm bọc đảm đương gây tạo
Mẹ muôn đời phát khởi nguồn thơm....
(Đêm Sao Biển Lặng, trang 73 )
Người Cha qua đời, tác giả đã tìm về bến
bờ thương yêu, an trú nơi nguồn thơm của Mẹ. Như một hoạ sĩ tài ba, phác hoạ
những bức tranh sống động tuyệt vời, chính Trần Quê Hương đã vẽ lại hình ảnh
trung thực, đủ đầy gam màu của đời sống, nhất là đời sống chứa đầy nước mắt,
đau khổ biệt ly. Và cao cả thay, người thơ vẫn còn thiêng tình của Mẹ
thắm đượm chở che, từ lúc tượng hình đến khi chào đời. Trong lúc người Mẹ với
hai mươi niên kỷ đã phải đoạn đành khóc chồng, một bóng nuôi con:
Con
gái hai mươi thành thiếu phụ
Khóc
tình chưa cạn lệ chia ly
Rồi
nay lai khóc thân đơn lẽ
Anh hởi! Sao mà vội sớm đi?
(Bào Thai Hai Tháng, trang 21)
Quê hương trong thời ly loạn, binh biến
ngập tràn. Nhưng trong đau thương loạn lạc, đổ nát lụn tàn, bất an đơn lẻ, vẫn
còn một tâm thức nguyên trinh ngọt ngào thánh thiện. Hay trên góc xó quê mình,
vẫn thoang thoảng hương bay thương nhớ!
Ô kìa, bàn tay thân ái nhẹ nhàng, trái tim
dịu ngọt bình an của đấng mẩu từ, đã un đúc và nuôi lớn người thơ. Do vậy, cho
dù tác giả có ngàn năm lưu lạc trong muôn vạn lối, có lang thang tận góc biển
chân trời, nhưng, tình thương của Mẹ đối với con thơ vẫn mãi khắc sâu trong
từng làn da thớ thịt. Hơn thế nữa, người đọc còn thấy rõ hình ảnh đau khổ, động
đến chín tầng trời, khi phải đoạn đành vĩnh biệt Mẹ hiền:
Trời
hỡi! Trời ơi! Trời hỡi trời!
Sao
ông nỡ rẽ mẹ con tôi
Đường
trần trăm, vạn, nghìn, muôn lối
Ai dỗ dành tôi tiếng ngọt bùi?..
(Đêm Sao Biển Lặng, trang 72)
Mặt khác, Suối Về Hoa Nghiêm không phải
chỉ là hình ảnh thục nữ đoan trang của người con gái đôi mươi, mà còn là một
tâm hồn lai láng, một trách vụ thiêng liêng của người thiếu phụ, đã ban trao
cho cuộc đời một đứa con trai, sau này, trở thành Sứ giả Như Lai. Chính Mẹ và
cuộc đời đã un đúc, nuôi lớn người thơ bằng những hạnh phúc khổ đau, những
hoang mang xót xa, hoài nghi tuyệt vọng, những nước mắt đắng cay dâng trào và
những ngọt ngào thánh thiện. Tất cả cứ đan xen trộn lẫn nhau, tạo thành những
áng thơ trác tuyệt phụng hiến cho đời, dàn trãi trên quê hương yêu dấu:
MẸ
mãi muôn đời MẸ của con
Dù
Nam Hải cạn, Thái Sơn mòn
Trái
tim in bóng THỜI mơ MỘNG
Tuổi ngọc ngà vương nét lệ SON
(Ngủ Trên Quê Hương, trang 78)
Bất cứ trẻ thơ nào ở tuổi ngọc ngà, cũng
đều mong muốn nằm gọn trong vòng tay thương yêu của Mẹ. Nhà thơ Trần Quê Hương
vào đời cũng đã sống với tất cả nỗi niềm say đắm, yêu thương và trân quý đó.
Nước sông Tiền vẫn âm thầm lặng lẽ chảy,
mưa vẫn nhè nhẹ rơi rơi. Mưa rơi trong phố vắng, mưa rơi ngoài thành thị, mưa
rơi trên ruộng đồng, trái tim người thơ đã ướt đẫm nước mắt khi làm kẻ xuất
trần.
Năm tháng trôi qua, tác giả đã lê bước
phong trần, đầu đội trời, chân đạp đất, cùng đoàn Sứ giả Như Lai, đêm ngày dấn
thân hành hoá. Những con đường gồ ghề sỏi đá, những ngọn núi ngoạn mục hiểm
nguy, những dòng sông sâu thẳm cách trở, đã không ngăn bước đăng trình của
người cô lữ. Giác ngộ vô thường, dấn thân cất bước, bước lên thị-phi nhân ngã,
bước qua đau khổ trần ai, nói lời tri ơn từ tạ, trao đoá liên đài thánh thiện:
Xin
tạ ơn phố thị khách trần
Cho
tôi thời khắc quán duyên thân
Cho
tôi giác ngộ vô thường huyễn
Tâm giải thoát hồng…dưới nắng xuân
(Giác Ngộ Vô Thường, trang 88)
Quả thật, trái tim giác ngộ vô thường lại
là tinh thần nhân ái chân thành, là tâm hồng giải thoát muôn phương, là tiếng
yêu thương ngọt ngào, trao gởi đến cuộc sống lẻ loi đơn độc, hay trong bóng tối
đoạ đày.
Nhìn cuộc lênh đênh chìm nổi trong khách
trần hư huyễn, nhà sư Trần Quê Hương tự trăn trở đến cuộc lang thang, nỗi đơn
côi của chính mình. Để rồi, giữa nắng xuân rực rỡ, những ước mơ ngọt ngào trộn
lẫn đắng cay, những tha thiết chân tình trộn lẫn bi thương khoắc khoải. Tất cả
đều quyện chặt trái tim giúp đời, tạo thành nguồn vui sống đạo!
Do vậy, Suối Về Hoa Nghiêm hoàn toàn không
phải là những mảnh rời kỷ niệm, mà là những kết tụ thương yêu, không phải là
những hồi ức vụng về, mà là xương thịt và tâm linh của nhà thơ. Một quá khứ
đượm đầy đắng cay, pha lẫn hạnh phúc yên bình, đã gắn chặt như hình với bóng từ
lúc chào đời đến khi trưởng thành và trở thành người Khất sĩ du phương. Để rồi,
dù là Thi sĩ, Khất sĩ hay Tăng sĩ, nhà thơ Trần Quê Hương đã dâng hiến cho đời
ngàn đoá tâm hoa thánh thiện, nhiều áng thơ hay trác tuyệt!!!
Chùa Phật Đà, Úc Châu, Rằm Tháng Bảy-Tân
Thích Thiện Hữu
No comments:
Post a Comment