Thursday, July 8, 2021

Bình thơ: Trần Quê Hương

 Trần Quê Hương Với Tặng Phẩm Dâng Đời - Thích Thiện Hữu - 


Trần Quê Hương làm thơ như đang thở, đang nói với chính mình. Mặc dù, những áng thơ trong thi phẩm đa phần mang sắc màu tôn giáo và dáng dấp triết lý cao siêu. Nhưng, đây không phải là triết lý tháp ngà, rời xa thực tế, mà là triết lý hoá nhập, thiết thân với con người và chúng sinh vạn loại.

Đến cõi nhân gian này để vun đắp, hy hiến, ban trao và nhà thơ Trần Quê Hương là một trong vô lượng con người như thế. Ông đã kết giữ trái tim nguyên trinh trong cõi tâm hồng thành Tặng Phẩm Dâng Đời.

Những áng thơ trong Thi Tập, là tiếng nói chân thành, là lời cầu nguyện tha thiết của một tâm hồn, một trái tim rung động. Chất liệu và hồn thơ đã chấp cánh bay vào thế giới tâm linh. Nơi đó, có bầu trời xanh huyền nhiệm, có ánh nắng trí tuệ lung linh, có những cụm mây muôn màu, có những hạt mưa lành lạnh, có những làn gió mát đong đưa. Phải chăng, tất cả chỉ là một phần trong muôn phần pháp giới, là tiếng thinh không khẻ gọi trong tâm thức mênh mông.

Nhà thơ không mô tả những chuyến du hành của người ngao du sơn thuỷ, mà cho độc giả thấy được bước khởi đầu vô thuỷ của kiếp luân hồi và còn tiếp tục cất bước ra đi:


Tôi đi từ vô thuỷ

Gọi mặt trời đi theo

Bạn đường vui thiên lý

Trên vai túi vải nghèo (Tặng Phẩm Dâng Đời, trg 145)

 

Tác giả đã không gọi mời người đời dõi bước chân theo, không lôi kéo tha nhân sánh bước đi cùng. Lạ hơn người khác, Trần Quê Hương chỉ gọi mời mặt trời, nhưng là tiếng gọi niềm tin, là mặt trời hồng tỉnh thức. Rồi hành trang của người cô lữ, của kẻ độc hành là túi vải nghèo, là lòng nhẫn nại, thong dong tự tại trên khắp nẽo đường thiên lý. Vừa đi vừa soi dẫn lòng mình, vừa gọi mời tha nhân bằng nếp sống hiền sĩ sẳn có trong tâm thức Việt nam:


Tôi đi từ vô thuỷ

Đến kiếp này dừng chân

Việt Nam duyên hiền sĩ

Tôi tỉnh giấc mộng trần (Tặng Phẩm Dâng Đời, trg 154)

 

Người thơ đã tạm dừng chân nơi đất Mẹ Việt nam, mảnh đất Tiên-Rồng đã sản sinh Phật Việt, đã dung hoá đạo đức ngàn đời của quốc Tổ Hùng Vương. Non sông thiêng liêng này, đã là thánh địa mầu linh, để muôn ngàn đoá hoa đạo đức, vô lượng trí tuệ tuyệt vời hé nụ khai mầm.

Ngọn lửa của lòng tôn kính được thắp sáng. Khắp mọi miền sông Cữu, người thơ đêm ngày cất bước, mặc cho gai bụi cuộc đời có làm rách nát xác thân, Trần Quê Hương vẫn luôn tỉnh giấc mộng trần, cúi đầu mặc niệm, hát khúc Phương Tâm Ca:


Ta cúi đầu mặc niệm

Những giọt máu hồng tươi

Những trái tim đại ngã

Đã điểm tô sinh hoá

Cho hàng vạn nụ cười

Trái Tim-nguồn hơi thở

Phương Tâm Ca tuyệt vời. (Phương Tâm Ca, trang 187)

 

Chính ánh mắt bi từ, bàn tay nhân ái, trái tim đại ngã đã điểm tô sinh hoá, đã nở muôn vạn nụ cười và đã biến thành Phương Tâm Ca tuyệt vời! Thế mới biết, cuộc sống này, vũ trụ này không chỉ có đỏ đen tang tóc, thù hận đau thương, mà còn có dịu dàng tinh khiết. Trước giọt sương mai mong manh trên ngọn cỏ, còn có cả cuộc hồi sinh tối thượng. Chính trái tim nhỏ bé chứa đầy sự sống nhiệm mầu, đang lấp lánh chiếu soi như ánh lưu ly tuyệt thế:


Ngàn trăng sao kết bạn

Suối bạc dòng nghiệm suy

Cỏ, hoa, chim, sóc, nhạn

Nụ cười hiền lưu ly (Tặng Phẩm Dâng Đời, trg 156)


Nhà thơ xẻ chia thế giới Hoa Tạng hay Cực Lạc Di Đà ngay trong đời sống này. Do vậy, dù nhiều kiếp có lang thang làm khách phong trần, nhưng, thế giới thường chân vẫn lung linh chiếu diệu. Cỏ cây đất đá, trời mây non nước, trăng thanh gió mát, suối bạc hoa tươi, đều là pháp thân mầu nhiệm của thể tính bất sinh. Dường như người thơ muốn gọi mời mọi người trở về sống với thế giới thanh tịnh này. Khi nào những hố sâu của đời sống được gạt bỏ, những hẹp hòi của thế nhân được dứt trừ, những ồn ào của danh lợi được lắng tịnh, thì con người sẽ có cơ may nở nụ cười hiền và bừng sáng ánh minh nhiên.  Thậm chí, trong vách đất am tranh, nơi sóng biển rì rào vẫn sống với tịnh thanh chân tánh:


Thanh Tịnh Am kết tình

Ngày đêm vui tâm linh

Sáng làm thơ, dạo biển

Chiều tụng phẩm chơn kinh (Cuối Chân Trời 2, trang 197)

 

Ai nói nhà sư không có cảm tình? Nhà sư thực sự đã kết tình với tâm linh, với duyên sinh vô ngã. Ngồi trong vách đất am tranh, hay đi đến phương trời vô trụ, tâm vẫn an vui hát khúc ca vô ngã đại đồng. Chướng ngại nặng nề không còn, não phiền nhiều kiếp bặt dứt, ngày đêm sống với tâm linh, sáng làm thơ dạo biển, chiều tụng kinh trì chú. Mọi huyễn hoặc trần lao dứt sạch, tuệ trí Bát nhã hồi sinh. Ô kìa, nơi cuối chân trời, hay đến ngày Rằm tháng Tư, bổng thấy đức Phật hằng hữu trở về trên đỉnh Chân như:


Sáng nay lên chùa dự lễ

Mừng ngày Phật đản tháng Tư

Ngày rằm thiêng liêng lịch sử

Phật về trên đỉnh chân như (Phật Về Trên Đỉnh Chân Như, trang 206)

 

Ngày Rằm Tháng Tư lên chùa dự lễ, bao nhiêu hương hoa diễm lệ phụng hiến Ta bà. Trong khoảng sát na, bổng thấy Đức Phật trên đỉnh Chân như. Chân như là sự sống và sự sống chính là chân như.

Hơn thế nữa, niềm mơ ước của người con Phật hay của chính tác giả là nhìn thấy mọi người và tất cả chúng sinh trở về sống với bản thể chân như, nhất là trong xã hội ồn ào này. Trong thế giới băng giá tình người, bản thể Chân như chính là lòng nhân ái chỉ biết ban trao mà không cần đền trả.

Cuối chân trời ánh sáng sẽ chói ngời dương thế. Mọi ách tắc khổ đau được khai thông, phương hồng cỏ lung linh dưới ánh nguyệt cầm, để ngàn năm dâng tặng:  


Tôi dừng chân cuối trời

Dưới lòng nguyệt thu rơi

Dâng đời bài thơ nhỏ

Dâng cả trái tim tôi

Và cả phương hồng cỏ

Lung linh hố thẩm trời (Tặng Phẩm Dâng Đời, trg 164)

 

Tóm lại, toàn bộ thi tập là lời mời gọi, là tiếng hát giữa cuộc lữ mênh mông. Đọc Tặng Phẩm Dâng Đời để trợ duyên cho nhịp đập yêu thương, giúp con người thấy rõ ý nghĩa thiết thân của cuộc sống. Hơn nữa, nó còn ban phát đôi cánh nhẹ nhàng, để con người có thể bay qua những thử thách trần gian!

Trần Quê Hương làm thơ như đang thở, đang nói với chính mình. Mặc dù, những áng thơ trong thi phẩm đa phần mang sắc màu tôn giáo và dáng dấp triết lý cao siêu. Nhưng, đây không phải là triết lý tháp ngà, rời xa thực tế, mà là triết lý hoá nhập, thiết thân với con người và chúng sinh vạn loại.

Ngôn từ sử dụng tự nhiên, tha thiết dịu dàng, đủ đầy thinh âm hình tượng. Tuy làm thơ nhưng giống như tâm sự. Chính những chất liệu tuyệt vời này, một mặt, có công năng giữ chặt độc giả, mặt khác, có thể giúp người đọc mở rộng cõi lòng, mở cửa trái tim trong kiếp sống nhiệm mầu này.

Ô hay, nỗi niềm trân kính trào dâng, trái tim rung cảm đã hoá thân cùng tác giả! Khi thưởng lãm Thi Tập này, đã một lần hay nhiều lần, tôi có cơ may nhìn lại trái tim mình!!!

Chùa Phật Đà, Úc Châu, Rằm Trung Thu năm Tân Mão-nhằm 12-09-2011. T.K.Thiện Hữu

 

 

SUỐI VỀ HOA NGHIÊM

Tiếng Nức Nở Nghẹn Ngào Của Đứa Con Thơ

Suối Về Hoa Nghiêm không phải chỉ là hình ảnh thục nữ đoan trang của người con gái đôi mươi, mà còn là một tâm hồn lai láng, một trách vụ thiêng liêng của người thiếu phụ, đã ban trao cho cuộc đời một đứa con trai, sau này, trở thành Sứ giả Như Lai. Chính Mẹ và cuộc đời đã un đúc, nuôi lớn người thơ bằng những hạnh phúc khổ đau, những hoang mang xót xa, hoài nghi tuyệt vọng, những nước mắt đắng cay dâng trào và những ngọt ngào thánh thiện.

 

Đầu thập niên 90, lúc còn dưới mái ấm Cao Cấp Phật Học, Sư Giác Khang hệ phái Khất Sĩ và Sư Giác Nguyên hệ phái Nguyên Thuỷ có hỏi tôi, đã đọc qua Thi Phẩm Suối Về Hoa Nghiêm của Trần Quê Hương chưa? Thú thật, khi đó, tôi có đọc qua, nhưng chẳng để tâm để ý nhiều.

Gần đây, tôi được duyên lành, nhận được Thi Phẩm này do chính tác giả gởi tặng, nay đã tái bản lần thứ 5. Tập thơ rất đẹp, từ hình thức trình bày bên ngoài đến kết cấu nội dung bên trong.

Tôi đã dành thời gian đọc đi đọc lại nhiều lần. Càng đọc, trái tim đồng cảm càng rung động, nhân lên gấp bội. Càng đọc, càng có cơ hội thấu hiểu và trân quý người thơ hơn. Nhân đây, tôi xin ghi lại một phần suy nghĩ, cảm xúc của mình, ước mong được xẻ chia với thân hữu gần xa!

 

Thơ của Trần Quê Hương, ngoài âm thanh, giai điệu, ngữ nghĩa dồi dào, còn ẩn hiện nhiều màu sắc rực rỡ.

Trong Suối Về Hoa Nghiêm, hơn phân nữa nói về trái tim thương yêu của đấng mẫu từ và người hiếu tử. Người thơ đã khéo léo bám chặt vào tình yêu thiêng liêng của Mẹ hiền và vào sự lãng mạn của chính mình. Đó là chiếc chìa khoá giúp ông mở tung những cánh cửa của chán nản tuyệt vọng, của đau thương mỏi mệt để vượt thoát và thăng hoa trước cuộc tồn sinh:

 

Cha chết khi tôi còn là máu

Mới tượng hình trí não chưa gom

Mẹ đùm bọc đảm đương gây tạo

Mẹ muôn đời phát khởi nguồn thơm....

(Đêm Sao Biển Lặng, trang 73 )

 

Người Cha qua đời, tác giả đã tìm về bến bờ thương yêu, an trú nơi nguồn thơm của Mẹ. Như một hoạ sĩ tài ba, phác hoạ những bức tranh sống động tuyệt vời, chính Trần Quê Hương đã vẽ lại hình ảnh trung thực, đủ đầy gam màu của đời sống, nhất là đời sống chứa đầy nước mắt, đau khổ biệt ly. Và  cao cả thay, người thơ vẫn còn thiêng tình của Mẹ thắm đượm chở che, từ lúc tượng hình đến khi chào đời. Trong lúc người Mẹ với hai mươi niên kỷ đã phải đoạn đành khóc chồng, một bóng nuôi con:

 

Con gái hai mươi thành thiếu phụ

Khóc tình chưa cạn lệ chia ly

Rồi nay lai khóc thân đơn lẽ

Anh hởi! Sao mà vội sớm đi? 

(Bào Thai Hai Tháng, trang 21)

 

Quê hương trong thời ly loạn, binh biến ngập tràn. Nhưng trong đau thương loạn lạc, đổ nát lụn tàn, bất an đơn lẻ, vẫn còn một tâm thức nguyên trinh ngọt ngào thánh thiện. Hay trên góc xó quê mình, vẫn thoang thoảng hương bay thương nhớ!

 

Ô kìa, bàn tay thân ái nhẹ nhàng, trái tim dịu ngọt bình an của đấng mẩu từ, đã un đúc và nuôi lớn người thơ. Do vậy, cho dù tác giả có ngàn năm lưu lạc trong muôn vạn lối, có lang thang tận góc biển chân trời, nhưng, tình thương của Mẹ đối với con thơ vẫn mãi khắc sâu trong từng làn da thớ thịt. Hơn thế nữa, người đọc còn thấy rõ hình ảnh đau khổ, động đến chín tầng trời, khi phải đoạn đành vĩnh biệt Mẹ hiền:

 

Trời hỡi! Trời ơi! Trời hỡi trời!

Sao ông nỡ rẽ mẹ con tôi

Đường trần trăm, vạn, nghìn, muôn lối

Ai dỗ dành tôi tiếng ngọt bùi?.. 

(Đêm Sao Biển Lặng, trang 72)

 

Mặt khác, Suối Về Hoa Nghiêm không phải chỉ là hình ảnh thục nữ đoan trang của người con gái đôi mươi, mà còn là một tâm hồn lai láng, một trách vụ thiêng liêng của người thiếu phụ, đã ban trao cho cuộc đời một đứa con trai, sau này, trở thành Sứ giả Như Lai. Chính Mẹ và cuộc đời đã un đúc, nuôi lớn người thơ bằng những hạnh phúc khổ đau, những hoang mang xót xa, hoài nghi tuyệt vọng, những nước mắt đắng cay dâng trào và những ngọt ngào thánh thiện. Tất cả cứ đan xen trộn lẫn nhau, tạo thành những áng thơ trác tuyệt phụng hiến cho đời, dàn trãi trên quê hương yêu dấu:

 

MẸ mãi muôn đời MẸ của con

Dù Nam Hải cạn, Thái Sơn mòn

Trái tim in bóng THỜI mơ MỘNG

Tuổi ngọc ngà vương nét lệ SON 

(Ngủ Trên Quê Hương, trang 78)

 

Bất cứ trẻ thơ nào ở tuổi ngọc ngà, cũng đều mong muốn nằm gọn trong vòng tay thương yêu của Mẹ. Nhà thơ Trần Quê Hương vào đời cũng đã sống với tất cả nỗi niềm say đắm, yêu thương và trân quý đó.

Nước sông Tiền vẫn âm thầm lặng lẽ chảy, mưa vẫn nhè nhẹ rơi rơi. Mưa rơi trong phố vắng, mưa rơi ngoài thành thị, mưa rơi trên ruộng đồng, trái tim người thơ đã ướt đẫm nước mắt khi làm kẻ xuất trần.

 

Năm tháng trôi qua, tác giả đã lê bước phong trần, đầu đội trời, chân đạp đất, cùng đoàn Sứ giả Như Lai, đêm ngày dấn thân hành hoá. Những con đường gồ ghề sỏi đá, những ngọn núi ngoạn mục hiểm nguy, những dòng sông sâu thẳm cách trở, đã không ngăn bước đăng trình của người cô lữ. Giác ngộ vô thường, dấn thân cất bước, bước lên thị-phi nhân ngã, bước qua đau khổ trần ai, nói lời tri ơn từ tạ, trao đoá liên đài thánh thiện:

 

Xin tạ ơn phố thị khách trần

Cho tôi thời khắc quán duyên thân

Cho tôi giác ngộ vô thường huyễn

Tâm giải thoát hồng…dưới nắng xuân 

(Giác Ngộ Vô Thường, trang 88)

 

Quả thật, trái tim giác ngộ vô thường lại là tinh thần nhân ái chân thành, là tâm hồng giải thoát muôn phương, là tiếng yêu thương ngọt ngào, trao gởi đến cuộc sống lẻ loi đơn độc, hay trong bóng tối đoạ đày.

Nhìn cuộc lênh đênh chìm nổi trong khách trần hư huyễn, nhà sư Trần Quê Hương tự trăn trở đến cuộc lang thang, nỗi đơn côi của chính mình. Để rồi, giữa nắng xuân rực rỡ, những ước mơ ngọt ngào trộn lẫn đắng cay, những tha thiết chân tình trộn lẫn bi thương khoắc khoải. Tất cả đều quyện chặt trái tim giúp đời, tạo thành nguồn vui sống đạo!

 

Do vậy, Suối Về Hoa Nghiêm hoàn toàn không phải là những mảnh rời kỷ niệm, mà là những kết tụ thương yêu, không phải là những hồi ức vụng về, mà là xương thịt và tâm linh của nhà thơ. Một quá khứ đượm đầy đắng cay, pha lẫn hạnh phúc yên bình, đã gắn chặt như hình với bóng từ lúc chào đời đến khi trưởng thành và trở thành người Khất sĩ du phương. Để rồi, dù là Thi sĩ, Khất sĩ hay Tăng sĩ, nhà thơ Trần Quê Hương đã dâng hiến cho đời ngàn đoá tâm hoa thánh thiện, nhiều áng thơ hay trác tuyệt!!!

Chùa Phật Đà, Úc Châu, Rằm Tháng Bảy-Tân

Thích Thiện Hữu

 

 

No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...