Saturday, July 3, 2021

Nguyễn Thụy Sơn

 

SÔNG BUỒN GÌ DÚI MẶT VÀO ĐÊM

 

Thơ: Thụy Sơn - Bài bình: Nguyễn Xuân Dương


Đêm
các cánh cửa khép chặt
một dấu lặng !
Đêm
cửa sổ tâm hồn mở toang
đầy gió
Bóng đêm thỏa hiệp
Nỗi cô đơn thức giấc hoàn hảo
Tư tưởng sục tìm
Bới lục trong từng ngăn ký ức thời gian
Nỗi nhớ cong vênh về một bức tranh
Về một bình minh đầy hoa và nắng
Giữa vách hồn vực âm dư chấn
Trong không gian tràn ngập tiếng cười
Những vòng tay ôm
chưa mặc định tan hợp một lần
Những vòng xe
Chở đời nhau ngày hai buổi xuôi truông
Gập con đường, vàng lối cỏ muồng
Những vòng xe
Là vòng tròn hạnh phúc đan suông
Thế mà tan ...
Những giấc mơ cầu vồng
Hào quang tỏa sáng lung linh
Thế mà tàn...
Đêm
Nỗi nhớ cong vênh
Cơn khát hạnh phúc phủ chụp
cháy khô vòm cổ
Đưa tay níu. Sợi buồn làm tổ
Con nhện cô đơn giăng cửi một khung sầu
Con thằn lằn độc thoại niềm đau
Ngày lệch dấu
Con ốc dúi mặt cuộn mình
trong lớp vỏ
Người đàn bà giấu cô đơn luồn vào khuy áo
Sông buồn gì ?
Dúi mặt vào đêm ...
(Thuỵ Sơn)

————

Cách đây không lâu tôi đã bình luận một bài thơ ngắn, vâng bài thơ không đề chỉ 28 từ. Ngắn mà không thiếu. Còn hôm nay lại là một bài thơ dài, rất dài. Dài nhưng không thừa bởi bài thơ chở nặng cô đơn, chở nặng nỗi niềm, chở đầy khát vọng. Tôi cứ võ đoán rằng bài thơ SÔNG BUỒN GÌ DUÍ MẶT VÀO ĐÊM được Thụy Sơn sáng tạo chỉ trong khoảnh khắc- một khoảnh khắc vụt hiện của thiên tài. Cũng có thể khoảnh khắc đó Thụy Sơn nhận được một năng lượng ngoại cảm phi phàm nào đó của vũ trụ. Ngôn ngữ và cảm xúc thơ rất mới lạ, rất nhiều khám phá mà tôi nghĩ không có khoảnh khắc ấy nhà thơ không thể có được bài thơ đó. Nói như vậy có phủ nhận vai trò sáng tạo của nhà thơ hay không. Tôi khẳng định là có vì theo tôi những bài thơ nằm lại được trong lòng người thường được sáng tạo ra trong thế giới vô thức và hoang tưởng của nhà thơ...

Tên bài thơ như một lời khẳng định mỗi dòng sông đều có một nỗi buồn và dòng sông cũng như con người khi buồn đã biết duí mặt vào đêm để dấu che đi nỗi buồn của mình. Từ cảm thức nội tâm dó nhà thơ gửi gắm tất cả những nỗi đau, cô đơn buồn khổ mất mát, nhớ thương vào trong những câu thơ ẩn chứa nhiều yếu tố hư ảo và phi lí. Chỉ có nhà thơ và ai đó là tri âm mới hiểu được sự phi lí đó. Còn tôi và các bạn chỉ cảm nhận bằng võ đoán mà thôi. Mà đã võ đoán thì khi đúng, khi sai cũng là chuyện thường tình. Trong tâm trạng ấy tôi viết đôi điều cảm nhận về bài thơ của Thụy Sơn SÔNG BUỒN GÌ DUÍ MẶT VÀO ĐÊM.
“Đêm
các cánh cửa khép chặt
một dấu lặng !
Đêm
cửa sổ tâm hồn mở toang
đầy gió”

Mở đầu bài thơ đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng. Đêm luôn đồng lõa với những điều bất trắc . Chính vì thế mọi ngôi nhà hoàn toàn theo nghĩa đen phải khép cửa để được an toàn. Một dấu lặng! ở đây như muốn nhắn gửi sự an toàn cũng chỉ có tính tương đối chứ không là tuyệt đối có nghĩa rủi ro vẫn tồn tại. Vâng trong đêm hay nói đúng hơn trong cuộc sống không có gì thuộc về an toàn vĩnh cửu. Nhưng với tâm hồn thì mỗi khi đêm về thì lại mở toang cánh cửa. Cứ nghĩ mở toang ra để đón những gì tốt đẹp nhưng chỉ là đầy gió tràn vào. Liệu tâm hồn rất mong manh yếu đuối ấy có chống lại được với gió không. Điều đó đã cảnh báo đêm về sẽ che giấu tất cả những gì của cuộc đời và đồng thời cũng che giấu những bất trắc. Nhưng rồi :

“Bóng đêm thỏa hiệp
Nỗi cô đơn thức giấc hoàn hảo
Tư tưởng sục tìm
Bới lục trong từng ngăn ký ức thời gian”

Lúc đầu ta cảm nhận bóng đêm đang giấu che những điều gì đó. Còn bây giờ bóng đêm đã thỏa hiệp nhưng chắc chắn không phải là thỏa hiệp với tội ác. Ở đây là thỏa hiệp với nỗi cô đơn. Giải phóng cho nỗi cô đơn được thức giấc hoàn hảo và được tự do cô đơn. Nỗi cô đơn không phải bị tù ngục trong trái tim trong tâm hồn như trước ánh ngày. Bởi vì ban ngày trước những cặp mắt xoi mói của cuộc đời liệu ai có dám phơi trải sự cô đơn, mong manh và yếu đuối của mình. Nhưng đó chưa phải là giới hạn bóng đêm còn thỏa hiệp cho sự khám xét lục tìm trong cái ngăn của thời gian vì trong đó tích tụ giấu chứa bao nhiêu là kỉ niệm gần trọn của một đời người. Đó là chưa nói đến những kỉ niệm của kiếp trước. Nếu vậy thì cái ngăn kí ức ấy sẽ là vô hạn. Chủ nhân của kẻ sục tìm khám xét ấy lại là tư tưởng của chính mình. Hay có thứ tư tưởng của ngoại cảm, điều này chỉ có nhà thơ biết còn chúng ta chỉ là những kẻ mù lòa...

“ Nỗi nhớ cong vênh về một bức tranh
Về một bình minh đầy hoa và nắng
Giữa vách hồn vực âm dư chấn
Trong không gian tràn ngập tiếng cười”

Sao lại là một nỗi nhớ cong vênh chứ không phải là nỗi nhớ tuyến tính. Và nỗi nhớ đó là nỗi nhớ về một bức tranh? Tôi cứ nghĩ khi nhà thơ viết trên giấy hoặc gõ trên bàn phím những câu thơ này đang hoàn toàn vô thức và nhà thơ không thể biết mình đang viết những gì. Bởi chính họ luôn bị một sức mạnh siêu phàm nào đó chi phối. Chỉ đến khi dừng lại mới giật mình chợt hiểu. Bức tranh cong vênh ở đây có thể là bức tranh treo tường. Cũng có thể đó là bức tranh của hiện thực cuộc sống khách quan. Hay bức tranh chỉ tồn tại trong kí ức. Vâng đúng thế vì đây là nỗi nhớ. Có một điều chắc chắn rằng khi đã bị cong vênh thì bức tranh phải bị biến dạng. Sau biến dạng bức tranh có thể xấu đi hoặc có thể đẹp hơn tùy theo cách nhìn của đôi mắt tư tưởng. Ở đây sau sự biến dạng ấy về cái nhìn bức tranh đã đẹp lên một cách kì ảo. Đó là một bình minh trải đầy hoa nắng. Nhưng hình như bình minh không thuộc về một ban mai mà vẫn là thứ bình minh của nội tâm. Trong một vách hồn đầy dư chấn của âm thanh, của ánh sáng. Trong một không gian vẫn là một không gian của nội tâm của cảm xúc tràn ngập tiếng cười...

“Những vòng tay ôm
chưa mặc định tan hợp một lần
Những vòng xe
Chở đời nhau ngày hai buổi xuôi truông
Gập con đường, vàng lối cỏ muồng”

Tôi cứ nghĩ hình như đến tận bây giờ trong đêm tối nhà thơ mới kịp nhận ra thân phận tình yêu. Sao không chỉ là mặc định về hợp mà còn mặc định cả về tan. Chỉ thế thôi ta mới thấy sự hợp tan của tình yêu mới thật mong manh và vô thường. Những vòng xe cũng bỗng dưng xuất hiện như từ trời cao rơi xuống. Tôi tin đây không phải là vòng xe cơ giới, vòng xe vận tải mà phải hiểu đây là vòng xe cuộc đời, vòng xe số phận chở đời nhau hai buổi xuôi truông. Lại hỏi sao không là trên một con đường thênh thang rộng dài mà lại Xuôi Truông- Đồng nghĩa chở đời nhau xuôi về miền hoang hoải quạnh hiu. Câu thơ có sức nặng ám ảnh như ngàn cân đè xuống trái tim người. Và lại hỏi sao lại gập một loại cỏ muồng. Xin được trả lời hộ nhà thơ vì thần linh bảo viết thế chỉ có loại cỏ muồng thân gỗ mới bị vòng xe số phận gập được. Phần nữa hoa cỏ muồng có màu vàng có thể rực vàng lên trong đêm nhưng không ai chơi hoa cỏ muồng. Cỏ muồng chỉ để làm thuốc chữa được nhiều bệnh phải chăng chữa cho căn bệnh mong manh của tình yêu. Phải chăng màu vàng ấy có nhuốm màu khổ đau. Hay đây là loại cỏ muồng có hoa màu đen như bóng tối màu đen sẽ đồng lõa với đêm phủ che tất cả không cho hai mảnh đời được mặc định về tình yêu...Và rồi vòng xe số phận vẫn quay tiếp:

“Những vòng xe
Là vòng tròn hạnh phúc đan suông
Thế mà tan ...
Những giấc mơ cầu vồng
Hào quang tỏa sáng lung linh
Thế mà tàn...”

Những vòng xe đã là sự kết nối đan suông hạnh phúc vào nhau tưởng sẽ vững bền mãi mãi nhưng không: Thế mà tan. Rồi những giấc mơ cầu vồng bừng hiện trong đêm với vầng hào quang tỏa sáng lung linh tưởng sẽ rọi soi cho lứa đôi chung hợp một con đường hạnh phúc. Nhưng không chỉ để rọi soi cho ta nhìn thấy sự tàn phai đổ nát của tình yêu hay cuả cuộc người...Thế mà tàn...

“Đêm
Nỗi nhớ cong vênh
Cơn khát hạnh phúc phủ chụp
cháy khô vòm cổ
Đưa tay níu. Sợi buồn làm tổ
Con nhện cô đơn giăng cửi một khung sầu
Con thằn lằn độc thoại niềm đau”

Trên kia nỗi nhớ cong vênh về một bức tranh giờ đêm lại có thể làm cong vênh nỗi nhớ. Phải chăng nỗi nhớ đã cô đặc lại biến đổi thành vật chất có thể nắm cầm, có thể nhìn thấy. Cứ tưởng nỗi nhớ chỉ êm ái dày vò giờ không ngờ nỗi nhớ lại cong vênh để dày vò những thân phận những kiếp người. Để cho cơn khát về một niềm hạnh phúc đã phủ chụp làm khát khô những vòm cổ đang yêu, vì yêu. Rồi trong vô vọng trong đớn đau lại đưa tay với những sợi buồn làm tổ. Nỗi nhớ hiện hình và giờ nỗi buồn cũng đã kết lại thành sợi để cho người ta bấu víu lấy mà làm cái tổ cho tình yêu, cho hạnh phúc hay cho một kiếp người nương náu. Nương náu trong cái tổ được kết bằng sợi buồn thì nỗi buồn cứ ấp ủ bủa vây đời ta mãi mãi. Con người thì sợi buồn làm tổ còn con nhện cũng cô đơn giăng cửi một khung sầu. Rồi nữa ta nghe như đang vang lên tiếng thằn lằn độc thoại niềm đau. Cứ theo cổ tích thì chỉ có con thằn lằn mới có niềm đau của sự bội bạc nên của mất nhà tan. Điều này đã khẳng định cả khách quan và nội tâm đều mang nặng những tâm trạng những nỗi niềm những mất mát thương đau. Những câu thơ chỉ thần linh xui khiến mới viết được chứ con người không thể viết được. Ở trên thì đêm đồng lõa còn ở đây thì:

“Ngày lệch dấu
Con ốc dúi mặt cuộn mình
trong lớp vỏ
Người đàn bà giấu cô đơn luồn vào khuy áo”

Ánh ngày đã đến nhưng hình như là một thứ ánh ngày đầy ma quái luôn xoi mói con người xoi mói loài vật để đến nỗi loài ốc hạ đẳng kia cũng cảm nhận được, phải dúi mặt cuộn mình vào trong lớp vỏ để che giấu hình hài nhầy nhũa của mình. Còn người đàn bà giấu nỗi cô đơn luồn vào khuy áo của mình. Tất cả, tất cả nỗi buồn, nỗi nhớ, nỗi cô đơn ở đây đều được cô đặc lại để không bao giờ có thể tan và cứ thế bám chặt cho hết những kiếp người.

Liệu mảnh áo mỏng manh trên khuôn ngực căng đầy khát vọng có thể che giấu được nỗi cô đơn, nỗi buồn , nỗi nhớ đã cong vênh trước cái nhìn xoi mói của ánh ngày, của đồng loại...Thì ra bóng đêm vẫn là sự chở che đùm bọc cho những phận người trên cõi thế gian này.

Cuối cùng là một câu hỏi:

“Sông buồn gì?
Dúi mặt vào đêm ...”

Câu hỏi đó không chỉ làm đau nhói tất cả các dòng sông của thời hiện đại , thời mà nhà thơ Nguyễn Thụy Sơn đang sống. Làm đau nhói lòng tôi, lòng bạn mà còn cả dân tộc Việt Nam này. Khi tất cả các dòng sông đều bị băm nhỏ ra, dòng chảy bị chặn lại để cho dòng Đô La chảy vào két sắt của các nhà tư sản không phải của các nước tư bản giẫy chết mà của các nhà tư sản Xã Hội Chủ Nghĩa. Tất cả các dòng sông đều đang đi vào diệt vong vì lòng tham vô độ của con người.

Không còn nữa, mãi mãi không còn nữa những dòng sông trong cuộc đời trong thi ca và trong Tây Tiến của Quang Dũng:

SÔNG MÃ GẦM LÊN KHÚC ĐỘC HÀNH.

Giờ đây mọi dòng sông đều là dòng sông Trà Khúc như nhà thơ Vương Hoài Uyên đã viết:

QUA SÔNG TRÀ KHÚC MÙA HẠ
Sông xưa giờ đã cạn
Đâu rồi tiếng “đò ơi!”
Đáy sông thành bãi sạn
Ngô, đậu đã đâm chồi.
Chỉ còn ao nước nhỏ
Dưới chân cầu lặng yên
Lơ thơ vài khóm cỏ
Âm thầm mơ thảo nguyên.
Soi mình trong vũng nước
Hỏi hồn sông nơi đâu ?
Mơ hồ nghe cá quẫy
Đau chuyện đời bể dâu.
Trăng về nơi cuối bãi
Ngỡ ngàng mơ bến sông
Con đò xưa gác mái
Trên bãi bồi mênh mông.

Thi nhân ơi xin đừng hỏi nữa câu hỏi làm buốt nhói trái tim người, buốt trái tim dân tộc:

“SÔNG BUỒN GÌ
DÚI MẶT VÀO ĐÊM”

Có thể khẳng định rằng thơ Nguyễn Thụy Sơn luôn dồi dào cảm xúc và đẫm chất trí tuệ. Nhưng điều cơ bản nhất đã là thứ thơ của cô đơn, khát vọng và khoảnh khắc. Bởi chỉ khi cô đơn mới tạo điều kiện cho sự sáng tạo. Không khát vọng thì thơ vô hồn và mù lòa. Không có những khoảnh khắc vụt hiện lóe sáng của thiên tài chẳng thể nào có được cái gọi là tác phẩm văn học. Thơ Nguyễn Thụy Sơn đã có chỗ đứng trong lòng bạn đọc.

Chúc chị bình an hạnh phúc và sáng tạọ.

 

ĐÔI DÒNG CẢM NHẬN CÁNH CỬA HIỆN SINH

 

Thơ: Thụy Sơn - Bài viết: Nhà thơ Nguyên Bình

Mượn bóng chiều vàng thỏa hiệp đêm
Mây Tần qua Sở phủ non thiêng
Rêu phong khóa kín hồn bia đá
Bia miệng ngàn năm ngậm tuổi tên
Vác nỗi buồn lên gõ cửa trời
Dọc hàng mây trắng nắng ai phơi
Thiền am bóng bụt vừa đi vắng
Sương tuyết hồn ta hóa thạch ngồi
Dúi ngày sau cánh cửa hiện sinh
Ếch đáy gương soi thẹn bóng mình
Đục nước ao nhà trăng loã thể
Bên hồ chết cạn giọt nguyên sương
Gõ xuống hợp âm một nốt trầm
Dội vào vách đá lặng thinh âm
Chúa trên thập giá chùi vệt máu
Phật ngự đài sen bước xuống Trần.
(Thụy Sơn)

————

Tôi quả bạo gan khi nhắm mắt nhảy xuống cái vực sâu thăm thẳm mà Thụy Sơn vừa dắt độc giả đền bên bờ hoang liêu của CÁNH CỬA HIỆN SINH. Đánh liều vì thơ TS đã được một số cây bút chuyên nghiệp đánh giá, phê bình với khá nhiều giấy mực. Tôi cũng chưa có dịp đọc TRẦM TÍCH, tác phẩm của TS vừa trình làng trong thời gian gần đây. Nhưng có gì ngăn cấm tôi viết ra cảm xúc của mình trước một bài thơ mà tôi yêu thích, khiến hồn tôi rung động? Puskin gọi nhà thơ là “ca sỹ kiêu hãnh của tự do”, Còn tôi, tôi không được tự do thả đôi cánh diều thăng hoa khi lắng nghe ca sĩ kiêu hãnh của tự do cất tiếng hát từ bên trong cánh cửa thiền chăng?

Thế đấy, khẳng định để tự tin. Ngòi bút của tôi bắt đầu .Có điều, xin thưa lại một lần nữa, đây chỉ là cảm nhận của riêng mình, tôi không bao giờ nghĩ mình đủ tư cách khen chê thơ của nhà thơ mà bạn bè đang rất yêu mến và ngưỡng mộ, đương nhiên, trong đó có Nguyên Bình. ( là tôi )

Không gian thơ của CÁNH CỬA HIỆN SINH là một nguyên khối quyện hòa đậm chất suy tưởng. TS không đặc tả đậm nhạt cái thế giới đang tồn tại để làm khúc dạo đầu, ở đây nhà thơ quán niệm thẳm sâu về quá khứ và hiện tại:

Mượn bóng chiều vàng thỏa hiệp đêm
Mây Tần qua Sở phủ non thiêng
Rêu phong khóa kín hồn bia đá
Bia miệng ngàn năm ngậm tuổi tên

Vâng, tôi cảm nhận được thời khắc pha trộn huyễn hoặc của ngày và đêm, của thực tại và tâm linh, của quá khứ bị bào mòn và vị lai chưa định hình, của xét nét nhân gian bia miệng mà tác giả chứng ngộ qua những thăng trầm biến thiên chuyển dịch. “Mây Tần qua Sở phủ non thiêng”, phải chăng thi nhân bày tỏ nỗi đau trước những khát khao danh vọng thấp hèn đã ngập tràn bao phủ lấy non cao của lòng tự trọng, hồn bia đá ngàn năm đã bị khóa kín bởi rêu phong thời gian vô vị, âm thầm bào mòn, gậm nhấm cho năm tháng tàn phai, và bia miệng ngàn năm không còn lên tiếng?

Vác nỗi buồn lên gõ cửa trời
Dọc hàng mây trắng nắng ai phơi
Thiền am bóng bụt vừa đi vắng
Sương tuyết hồn ta hóa thạch ngồi

TS, sau khi ngẫm ngợi chuyện đời xưa nay đắn đót, dè dặt ôm giấc mơ nhân gian bay vào cõi tịnh. Thi nhân vác cả nỗi buồn ngàn năm ấy đi gõ cửa thiên đình. Tôi đoan chắc rằng, nỗi buồn này không là đớn đau cá thể, không là hụt hẫng chơi vơi tình sầu tầm thường, mà chính là bi kịch nhân gian, mãi mê ngụp lặn hoang đàng với nhân sinh quan hẹp hòi đua chen hơn thiệt. Tác giả muốn cầm cố căn bệnh di căn của con người hôm nay cho trời đất, cho vũ trụ vĩnh hằng, như một sứ mệnh cứu rỗi tự thân gánh lấy. Thế mà, hãy xem kìa các bạn, trên đường viễn phương nhọc nhằn đó, thi nhân vẫn kịp ngắm nhìn “dọc hàng mây trắng nắng ai phơi” , lững lờ, bềnh bồng phù du, như cánh hạc từ cao tít từng không chiêm ngưỡng nét đẹp muôn đời của thiên nhiên lộng lẫy dưới đôi cánh lả bay, rồi lần ghé vào “thiền am bóng bụt vừa đi vắng”. Ngay cả ông Bụt, chủ nhân thiền am mà nhà thơ cũng cho "đi vắng", để làm gì ư? Tôi chợt khám phá ra rằng, TS thiết tha sở hữu một giấc mơ tự do tuyệt đối, bởi, chắc hẳn vào giây phút thăng hoa, tâm hồn thi nhân tinh khiết, không còn gờn gợn chút gì, trong như suối, lành như sương, vẹn nguyên như chân như diệu pháp thường hằng. Phải chăng chỉ còn TÔI còn TA, mà hồn ta là tuyết sương ngàn năm hóa thạch, một mình một bóng chễm chệ ngự cõi hoang nhiên. Phút giây ấy xuất thần vi diệu biết bao. Hình như Hê gen từng nói: “Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã trở nên tự do và không bị bó buộc vào nhận thức giác quan về vật chất bên ngoài; thay vì thế, nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tư tưởng và cảm xúc.” Tôi nghĩ, lúc vén tay phóng bút,TS đã bay lên vi vút cùng cảm xúc, quên mình là ai.

Vậy mà, bay chưa qua hết chín từng mây, không biết đã kịp gõ cửa nhà trời hay chưa, nhà thơ chừng như lại va vấp nỗi đời, âu cũng là thân phận con người, nào có ai đã vượt qua bên kia sông để đến với bờ giác như câu chú bát nhã ba la mật. Thật đau lòng, tôi thắt cả ruột gan:

Dúi ngày sau cánh cửa hiện sinh
Ếch trước gương soi thẹn bóng mình
Đục nước ao nhà trăng lõa thể
Bên hồ chết cạn giọt nguyên sương

Đêm hoang vu và ngày mỏi mệt. “Dúi ngày”, ôi thi ngôn hàm chứa trọn vẹn thực tại đầy mai mỉa làm nhức nhối tim gan. Cánh cửa hiện sinh toang hoác, nuốt chửng cái còm cỏi thân phận con người đang bị đọa đày, dày vò đến mỏi mòn khát vọng. Nhìn thấy cái hạn hữu của nhận thức, thẹn với mình như con ếch tự soi gương trong đáy giếng lạnh, thấy cuộc đời đen trắng lõa lồ, “đục nước ao nhà trăng lõa thể”. Ngoảnh lại chạm mặt nhân gian, vầng trăng thanh cao rơi xuống ao bùn, tung hê nhan sắc xiêm áo diêm dúa, và than ôi, “giọt nguyên sương” chết cạn mất rồi. Cánh cửa hiện sinh đêm ngày mở khép trong tối tăm và ảm đạm cùng thân phận người, thân phận thi nhân.

Thế thì, biết làm sao đây, thi nhân đành lòng gõ nốt trầm lên khung nhạc của lòng kiêu hãnh thi ca, mà đớn đau, mà mù lòa, có chăng là khát vọng hé mở cánh cửa thiền thay cho cánh cửa hiện sinh u trầm:

Gõ xuống hợp âm một nốt trầm
Dội vào vách đá lặng thinh âm
Chúa trên thập giá chùi vệt máu
Phật ngự đài sen bước xuống trần.

Nhưng, nốt trầm của nỗi buồn hiện sinh chừng như cũng chỉ dội vào vách đá, hắt thanh âm trở lại cắt cứa lòng người, đau như nỗi đau tận cùng của Chúa trên thập giá, và, “Phật ngự đài sen bước xuống… TRẦN, phải chăng là để cứu độ hành giả mắc nạn giữa cõi đời ô trọc...

Tác giả không dụng ngôn nhiều trong suốt bài thơ, mà thi ý lồng lộng muôn phương, mà cảnh giới thiền tâm trong mơ ước tuy mong manh sương khói nhưng có lẽ đã chạm lòng người đọc. CÁNH CỬA HIỆN SINH đã cho tôi khóc cười cùng tác giả, khóc cười cùng bao khát khao mà thi nhân thời đại chúng ta ít người vươn tới được.

Chúc Thụy Sơn tiếp tục sáng tác sung mãn, cống hiến cho đời những bài thơ hay.

Nguyên Bình
Bà Rịa - Vũng Tàu 


THẾ GIỚI THƠ THỤY SƠN 

                                                                                                 Bài viết: Lila


Thế giới Thụy Sơn bước vào là một thế giới sâu xa bí ẩn. Đó không chỉ là thế giới của người nữ - một nửa thế giới. Đó còn là tâm cảnh của mỗi con người, với những tầng nấc ngày càng vi tế, nơi hầu hết mọi người đều né tránh, vì bản ngã thích sống với những ảo vọng dường như lung linh, hơn là khám phá những chiều sâu sự thật về bản thân. Nhưng Thụy Sơn là một người khát khao khám phá. Tôi yêu cái thế giới thênh thang Thụy Sơn đã dám bước vào...

Cho phép tôi đưa bạn về thăm đôi bông hoa trong vườn hoa TS. Cảm nhận tùy mỗi người thưởng thức.

Chậm rãi thôi...
Tay ôm sợi nắng,
tay buông gió
Một gánh vô thường - một gánh mây...

Chẳng phải đã nói hết rồi sao? Ôm và buông, nắng và gió, sự ấm áp và vuốt ve của trần gian. Dường như gánh nhưng lại rất đỗi nhẹ nhàng vì đấy là mây... Ồ, và đấy là thế giới, dù bạn nhìn từ bên ngoài. Hoặc từ bên trong...

Tác giả tự nhận mình là "hạt bụi đam mê" "lỡ rớt lời kinh sám":

Qua sông làm rớt câu kinh
Nhặt luân hồi trả ba sinh kiếp này
nhưng vẫn "chọn một phương về":
Em xin lỗi!
Đã không thể cùng anh cháy tan vào sa mạc
Nơi hoang tàn đổ nát giấc đam mê
Tiếng chuông ngân giục giã bến quay về
Em xin lỗi... vạn lần xin lỗi!

Và trên đường về, Thụy Sơn... lỡ đánh rơi một vài câu thơ:

Lá bay kín mặt sông Hoài
Mình tôi với mảnh trăng soi ngõ về

Phải. Lối về thật đơn độc làm sao. Không cô tịch làm sao có thể soi lòng, có thể thâm nhập vào tận cùng sâu thẳm:

"Con chim ngậm hạt bồ đề"
Đã bay rong giữa mùa mê mải nào
Nhận chân đôi điều:
Hơn thua vấy đục tâm hồn
Bông lau giờ khác cỏ non thuở nào
Bắt đầu lắng nghe xem mình là ai:
Ta tìm ta giữa mông lung

để thấy:

Nắng ấm trước hiên nhà

Mọi nghi ngờ tan biến. Cảm nhận vượt quá ngữ ngôn:

Không phải gần chẳng phải xa
Mà nghe ấm thấu xương da từng lời
Không phải ta chẳng phải người
Chỉ là những hạt nắng trời giao duyên...

Quả nhiên thế giới ấy thật khó đi vào. Phương tiện diễn bày đành im tiếng. Vẫn còn đó vẻ đẹp và từ ái toát ra từ thơ Thụy Sơn cho ta 'hàn huyên':

Vạn vật chiều nay sao lặng tiếng
Bên đời níu gọi bóng hàn huyên

Chiêm ngưỡng tĩnh lặng. Để rồi thưởng ngoạn cả thị phi:

An nhiên môi nửa nụ cười
Trách sao tạo hóa đất trời nửa riêng
Vẫn biết ngõ về đâu tận:
Muộn rồi ta trở lại thôi
Trang kinh bỏ dở bên trời Lăng Nghiêm

Nhưng mỗi bông hoa mỗi áng mây trên lối về đều là ân sủng:

Sông cứ trôi cứ trôi
Đò xuôi truông chẳng vội
Hai hạt nắng cuối trời
Tình cờ rơi... rơi... rơi...

Vườn hoa Thụy Sơn muôn hương nghìn sắc. Tôi chỉ là lữ khách từ xa, mon men lại gần, thẫn thờ đứng ngắm vài bông...

Sài Gòn. Ngày tháng năm

  

VÀNG THU TA RỤNG 

Thơ: Thụy Sơn - Bài bình: Châu Thạch

(Trạn Trương Văn)


Chưa choàng y áo chân tu
Qua sông đã rớt kinh thư thuở nào
Đọa làm kiếp lá hanh hao
Vàng thu ta rụng xanh xao nỗi buồn
Áo đời hai mảnh vá suông
Sợi khâu tang hải sợi luồn bể dâu
Bàn chân giẫm nát đêm nhàu
Thái hư xẻ nửa trăng đầu khuyết hao
Hành châu nghịch thủy về đâu
Sóng tràng giang nhuộm trắng màu biệt ly
Đò chưa qua buổi xuân thì
Sông trăng dường đã già đi nhánh buồn
Ta ngồi chải tóc hoàng hôn
Sợi dài thế kỷ sống còn yêu thương
Đò mai rẽ bến Tiêu Tương
Quay nhìn con nước nguyên sương quê nhà
Buồn vui túy ngọa giang hà
Vàng thu ta rụng cội tà huy xưa

 

LỜI BÌNH:


Đọc cái đầu đề “Vàng Thu Ta Rụng…” chắc không ai hiểu gì. Đọc qua khổ một của bài thơ thì hiện lên trong mắt ta cả nỗi sầu hanh hao từ tiền kiếp. Lá cũng có linh hồn và lá trong thơ là hóa thân của một vị chân tu bị đọa từ kiếp trước bởi sơ hở trên con đường tu tập:

Chưa choàng y áo chân tu
Qua sông đã rớt kinh thư thuở nào
Đọa làm kiếp lá hanh hao
Vàng thu ta rụng xanh xao nỗi buồn

Cả một câu chuyện về luân hồi được kể lại trong bốn câu thơ. Một câu chuyện hoàn toàn hư cấu nhưng là một câu chuyện tưởng tượng độc đáo.

Chiếc lá vàng rơi mùa thu là quả của nhân. Cái nhân đẹp thì cái quả cũng đẹp. Nhân là vị chân tu thanh tịnh thì quả là chiếc lá vô ưu trên cây. Nhân “chưa choàng y áo” nên hậu quả của một sự vô tình đó là “để rớt kinh thư”. Rớt kinh thư trở thành tội để luân hồi kiếp sau thành chiếc lá.

Áo của tu sĩ màu vàng thì quả cũng nhập xác vào chiếc lá màu vàng để “vàng thu ta rụng”.

Tác giả đã hòa nhập triết lý Phật giáo vào thơ, dùng hình ảnh thanh thoát, câu từ thi vị để diễn đạt cái nghiệp lực mà dầu một vị chân tu cũng phải nhận lảnh.

Đọc thơ ta để ý đến chữ “ta” mà tác giả đã dùng. “Ta” chính là mình, là tác giả. Nếu không là sự cảm biết bản thân trong quá khứ thì cũng là một cảm ứng giữa kiếp trước và kiếp nầy trong hồn thơ tác giả.

Chữ “ta” làm cho tác giả nhập vào sự kiện, làm cho chuyện kể trở nên thực và làm cho người đọc cảm nhận gần gũi với một câu chuyện hoàn toàn hư cấu mà thú vị và lôi cuốn . Nhưng biết đâu lại là một câu chuyện thật từ trong tàng thức vô lượng kiếp tái hiện không chừng.

Nhà sư trong thơ “Đọa làm kiếp lá hanh hao”cũng đẹp tuyệt vời. Ngài không sa vào dục vọng trần gian, ngài chỉ lãng quên “ chưa choàng y áo” khiến sinh hệ luy mất kinh thư, từ đó sự đọa thành chiếc lá vàng của ngài cũng đẹp như chiếc lá thu bay .

Qua khổ thơ thứ hai, rõ ràng tác giả hóa thân mình vào nhà sư, hóa thân mình vào chiếc lá, với những trăn trở của mình trong kiếp nhân sinh:

Áo đời hai mảnh vá suông
Sợi khâu tang hải sợi luồn bể dâu
Bàn chân giẫm nát đêm nhàu
Thái hư treo nửa trăng đầu khuyết hao

Hai câu thơ đầu, tác giả lấy ý từ thành ngữ “Tang điền biến vi thương hải và ngược lại” (ruộng dâu biến thành biển xanh ) nhưng hay và lạ ở chỗ, nhà thơ đã đem hai sự kiện lớn lao làm thành một chiếc áo của đời mình.

Hình ảnh trong thơ diễn đạt sống động chiếc áo “tang thương” là hai mảnh của kiếp người với tất cả nghĩa vô thường của nó.

Hai câu thơ kế tiếp diễn tả hình ảnh kiếp người trong đêm tối mông lung.

“Thái hư” là “khoảng trống không vô định”. Trong khoảng trống không vô định đó, con người giẫm nát bóng đêm để đi tìm chân lý. Thế nhưng chỉ thấy “ nửa trăng đầu khuyết hao”nghĩa là chẳng thấy vầng trăng tròn bao giờ, hay là chân lý chưa hề hiện ra trọn vẹn. Chân lý chỉ thấy từ xa như thấy nửa vầng trăng.

Khổ thơ nầy hoàn toàn là miêu tả cái “khổ đế”của Phật giáo, nhưng diễn đạt bằng ngôn ngữ của thơ, hình tượng nỗi đau bằng hai mảnh vá, hình tượng sự mê muội bằng đêm thâu và hình tượng sự trôi lăn vạn kiếp lạc bước trong vô định để nhìn thấy chân lý như nửa vầng trăng, không trọn vẹn bao giờ . Bốn câu thơ bi quan, mô tả đời người trong hố thẳm tội lỗi, muôn kiếp mịt mờ trong bóng tối hư vô.

Khổ thơ thứ ba nhà thơ diễn đạt sự đấu tranh nhọc nhằn, sự tìm kiếm trong vô vọng, cùng sự phôi pha của một kiếp nhân sinh:

Hành châu nghịch thủy về đâu
Sóng tràng giang nhuộm trắng màu biệt ly
Đò chưa qua buổi xuân thì
Sông trăng dường đã già đi nhánh buồn

“Hành châu nghich thủy” có nghĩa là chèo thuyền ngược nước. Người xưa có câu “Nghich thủy hành châu bất tiến bất thoái” nghĩa là đi ngược dòng nước thì tới cũng không được mà lui cũng không được. Câu thơ đầu chỉ sự nan giải của một kiếp người, mắc kẹt giữa dòng đời như chiếc thuyền đi ngược dòng sông. Câu thứ hai mô tả dòng đời đầy sự biệt ly buồn ảm đạm.

Qua hai câu thơ sau “Đò đưa qua buổi xuân thì/ Sông trăng dường đã già đi nhánh buồn”nhà thơ đã nhìn vào đời bằng con mắt tâm lý của mình. Tất nhiên tuổi con sông phải già nhưng người qua sông lại thấy nó già hơn cái già của nó, giống như người đã ngao ngán cuộc đời vì thấy cuộc đời nhiêu khê và cằn cổi khi mình đang ở tuổi xuân thì.

Rồi thì bởi cái nhìn tâm lý, thấy đời già trước tuổi thọ của mình, nhà thơ mang tâm trạng bi quan yếm thế, ngồi thở than bên dòng sông định mệnh:

Ta ngồi chải tóc hoàng hôn
Sợi dài thế kỷ sống còn yêu thương
Đò mai rẽ bến tiêu tương
Quay nhìn con nước nguyên sương quê nhà

Bến Tiêu Tương là bến ở sông Tiêu Tương, nơi đây có chuyện tình Trương Chi-Mỵ Nương. Mỵ Nương rơi lệ xuống chén ngọc làm bằng quả tim anh lái đò có tiếng hát làm lung linh trăng vàng. Trương Chi, người đã chết xuống tuyền đài với tình yêu say đắm nàng vĩnh viễn. Trái tim chàng chỉ tan ra trong giọt nước mắt của nàng. Nhà thơ Thụy Sơn đã hư cấu mình ngồi chải tóc ở đó suốt trăm năm để nhìn con nước quê nhà thương cho mối tình bất diệt.

Thật ra tác giả chỉ mượn chuyện tình trên bến Tiêu Tương để nói về tất cả nhưng ngăn trở của cuộc đời. Sự chải tóc là hình ảnh của sự đợi chờ. Hoàng hôn chỉ thời gian đã qua, thời cơ của mình đã hết. Bốn câu thơ dùng những bức tranh tuyệt đẹp, lung linh để ta thán những nghịch cảnh mà đời đem đến. Đoạn phim trên bến Tiêu Tương, một người ngồi chải tóc, nhỏ lệ trên dòng sông sự tích đẹp làm sao, khiến cho người đọc thơ cảm nhận như mình ngồi ở chốn “nguyên sương” của thời xa xưa ấy .

Thụy Sơn dùng hai cầu thơ kết có hào khí ngất trời. Không phải hào khí của người chiến binh trong bài thơ “Khúc hát Lương Châu” của Vương Hoán có hai câu thơ “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà khác nhiều hơn với ý thơ này:

Buồn vui túy ngọa giang hà
Vàng thu ta rụng cội tà huy xưa

Hai câu thơ của Vương Hoán được Trần Trọng San dịch là “Sa trường say ngủ ai cười/ Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu”. Thụy sơn cũng dùng hai chữ “túy ngọa” là say nằm, nhưng không “túy ngọa sa trường” mà “Túy ngọa giang hà” là say nằm trên sông nước. Giang hà trong bài thơ “Vàng Thu Ta Rụng…” của Thụy Sơn như trên ta biết không phải là sông nước của mặt đất nầy, mà đó là dòng sông của định mệnh, là dòng quay của bánh xe luân hồi chuyển tiếp đời người kiếp nầy qua kiếp khác.

Trên dòng sông đó có một vị chân tu vì phạm lỗi phải đọa vào cuộc đời vàng như chiếc lá thu rơi. Vị chân tu buồn, túy ngọa trên dòng sông định mệnh ấy để rồi, cũng rụng như chiếc lá vàng rơi dưới cội cây trong một chiều nào đo, như những chiều năm xưa của kiếp nào .

Nhà thơ Lê Giao Văn đã bình luận bài thơ nầy như sau: “Bài thơ cổ điển mà hồn cốt rất tân thời”. Tôi nghĩ một nhận xét như thể đã nói đủ bài thơ nầy rồi. Cái hay của bài thơ nầy là sự khơi gợi ám ảnh và có sức lay động . Người đọc, qua trình độ hiểu biết Phật pháp, qua tâm hồn nghệ sĩ và qua sự thẩm thấu văn chương nhiều hay ít mà thưởng thức bài thơ, cảm nhận được những gì chất chứa trong thơ càng sâu thì càng thú vị. Với tôi, tôi đọc thấy nó hay ngay tự ban đầu, suy nghiệm nó hơi lâu, nhưng càng lâu thì càng yêu mến nó, một bài thơ không dễ có ai làm!!!

 

GIẤC MƠ BAY

 

Thơ : thụy sơn - Bài bình : Nguyễn Xuân Dương

 
Trở lại vườn xưa nắng tắt ngày
Xuân vừa chạm cửa nỡ đi ngay
Nghe sâu nỗi nhớ trong chiều hẹn
Uống cạn mùa vui cuối cuộc bày
Cứ tưởng đời còn hoa gấm trải
Đâu ngờ gió cuốn giấc mơ bay
Tóc người mấy nhánh buồn sương phủ
Rụng xuống đìu hiu chén tạc này.

 

GIẤC MƠ BAY- Là một bài thơ Đường luật rất hoàn chỉnh, rất mượt mà, rất nhuần nhuyễn về ngôn ngữ và chu đáo về nghệ thuât. Ta đã biết thể loại thơ ĐL thi pháp rất nghiêm ngặt, đòi hỏi chỉn chu về niêm về luật như thế nào. Tôi thật sự ngỡ ngàng trước tài hoa của thi sĩ Nguyễn Thụy Sơn trong thể loại cực kì khó này. Tôi xin nhường lại phần cảm nhận nghệ thuật cho các bậc tài danh về thể loại thơ Đường luật.

Còn tôi, tôi chỉ quan tâm đến cảm xúc mà bài thơ đem đến cho tôi đó là sức nặng tâm trạng sức nặng ám ảnh của bài thơ mà không phải tác giả thơ Đường luật nào cũng có được.

Vâng! Một “giấc mơ bay” đi chứ không phải là giấc mơ ở lại trong tâm thức nhà thơ. Tôi cứ luôn nghĩ về yếu tố hay là bản chất ma mị luôn tồn tại trong thơ Nguyễn Thụy Sơn. Nó cứ thế ám ảnh tôi khi mỗi lần tôi đọc thơ của chị. Nhiều khi con người ta phải sống bằng cả những giấc mơ. Nói khác đi những giấc mơ mong manh hư ảo cũng là một phần của cuộc sống. Thế mà với Nguyễn Thụy Sơn thì lại: “Đâu ngờ gió cuốn giấc mơ bay”. Chị Chẳng còn gì nữa cho cuộc đời mình. Chỉ còn lại nỗi cô đơn đến tận cùng. Những lúc như vậy chị chỉ biết: “Trở lại vườn xưa” Nơi lưu giữ những kỉ niệm đầy ắp của tuổi thơ và cả những kỉ niệm của mỗi lần đứa con tha hương lưu lạc tìm về với miền quê cũ. Một mảnh vườn đầy những hoa thơm trái ngot. Đầy tiếng chim và đầy những cánh bướm cánh ong và có lẽ còn có cả những kỉ niệm về mối tình đâù dang dở. Thế mà khi trở lại vườn xưa thì: “nắng tắt ngày” Tôi cứ nghĩ nắng là thứ ánh sáng, thứ lửa ấm để thắp sáng để nuôi những ngày tháng. Nhưng với nhà thơ thì nắng lại trở nên tàn nhẫn. Cứ chạnh nghĩ ngày là một đơn vị thời gian vĩnh hằng không thể đổi thay. Đó là khoảng thời gian mà trái đất quay về phía mặt trời. Đã nói đến ngày là phải có nắng tạo ra ánh sáng chiếu rọi muôn loài. Nhưng đối với Nguyễn Thụy Sơn nắng không còn thực hiện chức năng của mình mà tước đoạt và cưỡng bức thời gian của con người. Không chỉ đồng loại chi phối và cưỡng đoạt của nhau mà bây giờ ngoại cảnh đã chi phối cưỡng đoạt nốt thời gian tồn tại của con người. Trở lại vườn xưa là để trở lại với kỉ niệm nhưng không còn ngày nữa thì làm sao ta có thể nhìn thấy khu vườn tâm thức của ta được nữa. Định giải thoát cô đơn thì cô đơn lại ập về phủ kín tâm hồn nhà thơ...

Rồi: “Xuân vừa chạm cửa nỡ đi ngay”. Lại nghĩ mùa xuân cũng là khoảng thời gian nhất định trong một năm. Thời gian của mùa xuân là ba tháng với 90 ngày cứ thế tuần hoàn. Nhưng với nhà thơ cảm thức về thời gian luôn vùn vụt qua mau. Nhà thơ đã chua xót và tiếc nuối khi cảm thấy rằng mùa xuân vừa chạm cửa đã nỡ bỏ ta rồi. Nhà thơ cứ thế nghĩ về cái hữu hạn mong manh và nhỏ bé của kiếp người. Phải chăng đây cũng chỉ là giấc mơ mong manh lại bay đi tuột khỏi tầm kí ức ? .... Cứ thế mà lắng nghe. Nhưng cái nghe của nhà thơ không phải là cái nghe những âm thanh xao động của bên ngoài của cuộc sống mà là cái nghe của nội tâm : “Nghe sâu nỗi nhớ trong chiều hẹn”. Người ta có thể nghe được nỗi nhớ sao. Một nỗi nhớ đã được hẹn thề. Một nỗi nhớ đã làm vang động trong cõi lòng, trong tâm hồn của nhà thơ. Cái âm thanh không phải âm thanh ấy lại có sức nặng bóp nghẹt trái tim người. Những câu thơ ma mị cứ thế bóp nghẹt , cứ thế ám ảnh trái tim đã già nua nhưng vẫn rất nhiều đa cảm của tôi...

Nỗi nhớ thì nghe sâu. Còn mùa vui thì: “Uống cạn mùa vui cuối cuộc bày”. Phải chăng nhà thơ tham lam uống cạn cả một mùa vui. Cũng có thể là như thế. Nhưng không , đó chỉ là chút vui sót lại của một bữa tiệc thời gian. Chỉ là cuối cuộc bày hỏi còn được bao nhiêu. Nhà thơ không nói chủ nhân của sự bày đặt, điều đó phải chăng đây không phải là cuộc vui của chính mình mà cuộc vui của một thế lực tự nhiên nào đó bày sẵn ra...Mình chỉ là người quá ư chậm chạp, bao giờ cũng là người đến sau những cuộc vui, khi cuộc vui đã tàn.

Ở trên mỗi câu thơ là những đứt đoạn vụn vỡ chỉ có một dòng, còn bây giờ không hiểu sao mỗi câu thơ dài ra hai dòng như muốn nói cho hết những gì đang diễn ra trong cuộc trở lại vườn xưa. Ta hãy đọc:

"Cứ tưởng đời còn hoa gấm trải
Đâu ngờ gió cuốn giấc mơ bay”

Câu trên là câu thơ thắp lên niềm hy vọng. Nhưng niềm hy vọng của giả định của cơn mơ. Vâng cứ tưởng vậy thôi. Cứ tưởng cuộc đời còn đẹp lắm. Cứ tưởng đời còn hoa gấm trải. Nhưng không chỉ là tưởng còn thực tế thì chỉ còn là: “Đâu ngờ gió cuốn giấc mơ bay”. Giấc mơ mong manh của cuộc đời đã ghì cơn gió phũ phàng lạnh lẽo cuốn bay rồi. Nhà thơ chỉ còn lại sự ngậm ngùi tiếc nuối để kịp nhận ra những gì còn lại của đời mình. Hai câu kết đã gieo giông bão vào trong ta, vào trong cõi người một nỗi cô đơn mất mát đến lạnh người.

Không còn là mái tóc mượt mà óng chuốt của của tuổi thanh xuân. Thời gian khắc nghiệt đã kịp làm cho nó tàn phai, cho nó hao gầy giờ tóc đã xơ cứng và còn lại chỉ là nhánh thôi. Khái niệm về mái tóc người, mái tóc mình có điều gì đó không thuộc về cõi này mà hình như đó chỉ là những nhánh tóc của cõi chết. Những nhánh tóc để chở chứa nỗi buồn của sương phủ. Nỗi buồn đó đè nặng lên không chỉ mái đầu mà còn đè nặng lên tâm hồn nhà thơ khi tiệc rượu cuộc đời đìu hiu đã đến lúc tàn phai. Giấc mơ thì gió cuốn bay đi còn lại chỉ là:

“Tóc người mấy nhánh buồn sương phủ

Rụng xuống đìu hiu chén tạc này”

Bài thơ đã khép lại rồi mà tôi vẫn như nhìn thấy một thiếu phụ với mái đầu chỉ còn lại mấy nhánh tóc đã trắng xóa những hạt sương buồn, trắng xóa những gió bụi thời gian . Và hình ảnh thiếu phụ cứ ngồi đó chiêm nghiệm về cuộc nhân sinh , chiêm nghiệm chính cuộc đời mình bên dòng sông ký ức .

Tôi nghĩ đây là bài thơ đã được nhà thơ Nguyễn Thụy Sơn sáng tạo ra khi nhà thơ đã ở vào cõi cô đơn đến tận cùng. Vâng cô đơn chính là hoàn cảnh, chính là điều kiện để thi ca được sáng tạo.

 

No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...