THƠ TÌNH TUỆ SỸ
Vĩnh Đào
Trong số
những sáng tác của Thiền sư Thích Tuệ Sỹ, một số lớn được sáng tác trong thời
gian một năm tác giả rút về sống cô độc làm rẫy trong rừng Vạn Giã từ 1976 đến
1977. Những bài thơ này được gom lại trong tập “Giấc mơ Trường Sơn”. Ngoài
những bài thơ về núi rừng, về vũ trụ, về kiếp nhân sinh, còn có một số không ít
bài về tình yêu, rất tha thiết và truyền cảm, là một điều khá ngạc nhiên khi
tác giả là một thiền sư.
Nhớ con đường thơm ngọt môi em
Tóc em tung bay sương chiều khói biếc
Dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng
Tình hay mộng khi Trường Sơn xa hút
Ðến bao giờ mây trắng gởi tin sang
Hồn tôi đi trong rừng lang thang
Vọng lời ru từ ánh trăng tàn
Mắt em nhỏ ngại ngùng song cửa
Nghe tình ca trên giọt sương tan
Bóng tôi xa đêm dài phố thị
Nhớ con đường thơm ngọt môi em
Ơi là máu, tủi hờn nô lệ
Bóng tôi mờ suối nhỏ đêm đêm
Gót chân em nắng vàng xua viễn phố
Những ngón hồng ngơ ngác giữa đường chim
Ôi ta nhớ như đêm dài thượng cổ
Sợi tóc mềm lơi nhịp hát trong tim.
Bài thơ có
bốn đoạn, mỗi đoạn bốn câu, tổng cộng chỉ có 16 câu. Cũng như các bài tình ca
khác trong tập “Giấc mơ Trường Sơn”, bài thơ này là những lời tâm tình của tác
giả đang sống một thời gian trong rừng vì một lý do nào đó, nói rõ hơn là rừng
Trường Sơn, gởi gắm tâm sự mình đến một người con gái đang ở lại thị thành, hay
là một thị trấn nào đó. Người thiếu nữ không tên hẳn là người yêu, hay cũng có
thể chỉ là một người mà tác giả thầm thương nhớ.
Tác phẩm
được sáng tác theo thể thơ mới, bắt đầu bằng một đoạn thơ 8 chữ, tiếp đến là
hai đoạn thơ 7 chữ và cuối cùng chấm dứt bằng một đoạn thơ trở về 8 chữ.
Trong bài
thơ, tác giả nói về mình, hoàn cảnh và nơi chốn mình đang ở, nói về người thiếu
nữ, và nói lên niềm nhung nhớ của mình. Trong bài thơ 16 câu thì tác giả dành 5
câu nói về mình, 6 câu nói về người con gái ở xa, và 5 câu nói lên tâm trạng
nhớ nhung. Một sự phân phối không thể nào sòng phẳng, đồng đều hơn.
Về chàng trai
Trong năm
câu, tác giả cho biết nơi chốn mình đang ở và những chi tiết chung quanh khung
cảnh sống của mình, một khu rừng hoang vắng ở một nơi xa xôi: “Hồn tôi đi trong
rừng lang thang”, và: “Bóng tôi xa đêm dài phố thị”
Trong khung
cảnh đó, có những nét thơ mộng: “Vọng lời ru từ ánh trăng tàn”
Nhưng quan
trọng hơn là những nét đau thương, bi đát đáng ngại, chìm trong một bầu không
khí buồn ảm đạm, nhưng tác giả không nói rõ thêm vì sao:
Ơi là máu, tủi hờn nô lệ
Bóng tôi mờ suối nhỏ đêm đêm.
Chúng ta
hình dung một khung cảnh âm u bí hiểm, đầy bất trắc. Mặc dù có ánh trăng yếu ớt
chiếu trên cao nhưng cảnh vật dưới đất chìm trong bóng tối, dưới những tàn lá
dày. Một con suối giữa khu rừng hoang vắng và một bóng người lẻ loi. Người đọc
không biết gì hơn về hành động của nhân vật này và hình như anh cũng không có
một mục đích gì rõ rệt, vì hồn tôi đi trong rừng lang thang.
Nói tóm lại,
chúng ta không biết gì nhiều về chàng trai trong rừng, chỉ biết chắc chắn rằng
ngày đêm anh bị ám ảnh bởi hình ảnh một người con gái ở nơi phố thị.
Về nàng thiếu nữ
Tác giả bắt
đầu bài thơ bằng hai câu nhắc đến kỷ niệm người con gái ở miền xa. Và hình ảnh
đầu tiên về trong ký ức nhà thơ là mái tóc nàng:
Tóc em tung bay sương chiều khói biếc
Dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng
Khung cảnh
hiện ra mang đậm màu sắc lãng mạn: “sương chiều khói biếc”. Hình ảnh không có
gì mới nhưng vẫn giữ một sức gợi cảm cao. Một cuộc lên đường, một buổi chia tay
xảy ra vào một chiều sương xuống bao giờ cũng làm cho cuộc chia ly thêm nặng
sầu thương, hoặc thêm bi hùng, tùy theo hoàn cảnh, như hai câu trong bài “Tây
tiến” của Quang Dũng:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Ngoài “sương
chiều” còn thêm “khói biếc” làm cho khung cảnh mang thêm một nỗi buồn vời vợi,
khi ta nhớ rằng cảnh khói sóng trên sông vào lúc hoàng hôn trong những tác phẩm
cổ điển bao giờ cũng gây nên một nỗi buồn man mác.
Tiếp theo là
một hình ảnh rất mới: tóc em “dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng”. Tác giả
trình bày ở đây một hình ảnh siêu thực, là một kỹ thuật rất mới trong thi ca.
Đừng tìm hiểu tính cách “hợp lý” trong hình ảnh này. Vì thi ca siêu thực ép
buộc ta nhìn thực tại dưới một góc cạnh hoàn toàn mới, khác lạ so với những gì
các giác quan của ta cảm thấy trong điều kiện bình thường. Nhưng không phải
muốn viết gì cũng được để tạo ra một hình ảnh “siêu thực”. Chúng ta biết chất
liệu của thơ là ngôn ngữ. Đối với thi ca siêu thực thì điều này lại càng hết
sức quan trọng. Hình ảnh siêu thực trước hết là một sự kết hợp ngôn ngữ thật
hài hoà, tạo ra một chuỗi âm thanh quyến rũ, chiếm được sự đồng tình của người
đọc. Việc này hoàn toàn không dễ. Ở đây chúng ta có thể thấy dấu ấn của một thi
sĩ nhiều tài năng. Trong tay một người thợ xoàng, chúng ta chỉ có những kết hợp
vụng về, ngây ngô.
Chữ bâng
khuâng cũng giúp nhiều cho sức gợi cảm của hình ảnh. Tiếng Việt cũng như nhiều
ngôn ngữ khác, có một số từ rất khó tìm một từ với ý nghĩa hoàn toàn tương
đương trong một ngôn ngữ khác, như bâng khuâng, xao xuyến, bồi hồi, băn khoăn…
có khả năng biểu lộ những ngỏ ngách sâu kín nhất của tình cảm con người. Điều
này chứng tỏ mức độ tinh tế của một ngôn ngữ.
Hai câu tiếp
theo:
Mắt em nhỏ ngại ngùng song cửa
Nghe tình ca trên giọt sương tan
Tác giả tiếp
tục dùng phép đề dụ khi nhắc đến người con gái, tức là nói đến một phần thân
thể để chỉ toàn người: từ mái tóc đến mắt em, và tiếp theo sẽ là gót chân em.
Hình ảnh
người con gái bên song cửa không có gì mới, còn có tính cách ước lệ. Lưu Trọng Lư
đã viết:
Em là gái trong song cửa
Anh là mây bốn phương trời.
(“Một mùa
đông”)
Cũng như
hình ảnh cổ điển của người chinh phụ:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
(Chinh phụ ngâm)
Nhưng Tuệ Sỹ
bổ túc chân dung người con gái bằng “mắt em nhỏ ngại ngùng” và một chi tiết rất
lãng mạn: “nghe tình ca trên giọt sương tan” để vẽ lên bức tranh một người
thiếu nữ ngây thơ trong trắng chưa phải va chạm với cuộc đời, yêu thích mộng mơ
và lãng mạn cùng những thú vui giản dị.
Và hai câu
sau cùng:
Gót chân em nắng vàng xua viễn phố
Những ngón hồng ngơ ngác giữa đường chim
Chân dung
người thiếu nữ bên song cửa được hoàn tất với “gót chân em” và “những ngón
hồng”. Tính ngây thơ của nàng lại được nhắc lại với “Những ngón hồng ngơ ngác
giữa đường chim”, tăng thêm cảm giác nàng còn là một người trẻ tuổi trinh
trắng, một con chim nhỏ hay một con gà con chưa đủ sức để tự vệ giữa bầy quạ
ác.
Đoạn thơ
trước là một đoạn thơ 7 chữ, chấm dứt bằng câu “Bóng tôi mờ suối nhỏ đêm đêm”
gieo một không khí buồn tẻ, bi quan và ảm đạm cho bài thơ. Qua đoạn cuối cùng,
với sự xuất hiện trở lại của người thiếu nữ, là những câu thơ 8 chữ, mở đầu
bằng: “Gót chân em nắng vàng xua viễn phố”
Việc đầu
tiên mà sự xuất hiện của nàng xua đi chính là bóng đêm và bầu không khí thê
lương, nặng trĩu trước đó. Câu thơ chỉ có thêm một chữ mà chúng ta có cảm tưởng
như câu dài ra nhiều, không gian như mở rộng ra. Cùng lúc với người thiếu nữ
hiện ra, ánh nắng chói chan cũng tràn vào.
Bài thơ có
bốn đoạn. Đoạn 1 và đoạn 4 là những đoạn thơ 8 chữ, bắt đầu bằng: “Tóc em tung
bay…” (đoạn 1) và “Gót chân em…” (đoạn 4). Ở giữa là hai đoạn thơ 7 chữ, bắt
đầu bằng: “Hồn tôi đi…” (đoạn 2) và “Bóng tôi xa…” (đoạn 3). Những đoạn này chủ
yếu nói về chàng trai, có vẻ như chìm trong bóng tối nặng nề, u ám. Hai đoạn mở
đầu và kết thúc bài thơ là những đoạn thơ 8 chữ, trùng hợp với kỷ niệm và hình
ảnh người thiếu nữ, với những câu thơ rộng thênh thang giữa ánh sáng, thơ nhạc
và niềm lạc quan.
Nhà thơ dùng
những từ xưa như viễn phố, hay phố thị trên đây, và thượng cổ trong đoạn chót,
cho bài thơ những nét hoài cổ, kín đáo và trang trọng, cộng thêm với những hình
ảnh cổ điển tản mát trong bài thơ, khiến chúng ta hình như nghe phảng phất đâu
đó giọng thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Nỗi niềm thương nhớ
Sau khi cho
biết về mình, vẽ lên chân dung người con gái trong tâm tưởng, là những câu thơ
tỏ bày niềm nhung nhớ day dứt của nhà thơ. Ngay trong đoạn đầu tác giả đã chỉ
ra khung cảnh của niềm nhung nhớ:
Tình hay mộng khi Trường Sơn xa hút
Ðến bao giờ mây trắng gởi tin sang
Tác giả và
nàng thơ như ở hai phương trời cách biệt, không có một phương cách liên lạc
nào. Nếu người xưa trông vào tin nhạn thì nhà thơ chỉ có thể nhìn mây trời tìm
một dấu hiệu nào đó, nhưng mây đâu có chuyển được tin mà nhìn mây lại làm cho
lòng thương nhớ thêm nặng trĩu.
Nhớ con
đường thơm ngọt môi em
Đây là cách
hành văn tiêu biểu của ngôn ngữ thơ. Trên thực tế, không có con đường nào giữ
lại được mùi thơm của môi em. Chàng thi sĩ chỉ có thể nhớ con đường của những
kỷ niệm, con đường xưa em đi, rồi từ đó tưởng tượng ra bóng dáng em và nhớ lại
mùi thơm ngọt môi em. Lời thơ rất vắn tắt, cô đọng, để cho cảm xúc và trí tưởng
của người thưởng thức thơ lấp vào những khoảng trống bằng những kỷ niệm của
riêng mình.
Ôi ta nhớ như đêm dài thượng cổ
Sợi tóc mềm lơi nhịp hát trong tim
Bài thơ
chấm dứt bằng hai câu biểu lộ lòng nhung nhớ không nguôi. Bài thơ chấm dứt
nhưng lòng nhớ thương còn kéo dài triền miên không dứt. Từ thượng cổ ở đây
không phải hiểu theo nghĩa đen mà với tất cả hàm ý của nó. Thượng cổ là một
khoảng thời gian dài đăng đẵng, còn hoang sơ, tăm tối, trong lịch sử loài
người. Niềm nhớ nhung cũng dài hun hút, man sơ và hoang dại, bắt nguồn từ những
vùng sâu thăm thẳm của tâm tư.
Bài thơ đã
bắt đầu với một hình ảnh siêu thực với những sợi tóc và một khúc ca: dệt tơ
trời thành khúc hát bâng khuâng, thì nay cũng chấm dứt bằng một hình ảnh siêu
thực với cùng những yếu tố đó, những sợi tóc và một khúc ca: sợi tóc mềm lơi
nhịp hát trong tim. Dòng tư tưởng của tác giả trở về mức khởi đầu, làm thành
một vòng tròn khép kín. Nếu tác giả phân phối đồng đều số câu nói về mình, về
người con gái phương xa và về tình cảm nhớ nhung, chúng ta thấy là những gì tác
giả cho biết về mình rất ít, rất vắn tắt, và tác giả đã dành những hình ảnh
giàu gợi cảm, giàu tính thơ nhất khi nói về người tình xa vắng và những tình
cảm nhớ nhung của mình.
Thiền sư và tình yêu
Trong tập Giấc mơ Trường Sơn,
ngoài bài thơ “Nhớ con đường thơm ngọt môi em” chúng ta còn được đọc những câu
thơ về tình yêu giàu tình cảm, giàu hình ảnh thơ, chứng tỏ một bút pháp cực kỳ
điêu luyện của nhà thơ đạo sĩ:
Người mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khoé môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bất tận
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao.
(“Một thoáng
chiêm bao”)
Hay:
Anh đem giấc mộng đi hoang
Biết đâu mà kiếm trăng ngàn cho em?
…
Nhưng đáy mắt không căm thù đỏ cháy
Vì yêu em trên cây lá đọng sương mai.
…
Thoảng trông em tà áo mỏng vai gầy.
Ôi hạnh phúc, anh thấy mình nhỏ bé,
Chép tình yêu trên trang giấy trắng thơ ngây.
(“Ác mộng”)
Và còn nữa:
Còi xa vắng giữa trưa nào lạc lỏng,
Môi em hồng ta ước một vì sao.
(“Tiếng gà
gáy trưa”)
…
Anh vẫn nhớ những con đường bụi đỏ
Và tình yêu trong ánh mắt rã rời.
(Anh sẽ về
thăm phố cũ)
Toàn là
những lời thơ trau chuốt, và thiết tha, chân thật, phần lớn nhuộm màu sắc lãng
mạn.
Tác giả
Thích Tuệ Sỹ và đã giữ những trách nhiệm quan trọng trong Giáo Hội Phật Giáo và
kể từ sau khi Tăng thống Thích Quảng Độ qua đời vào tháng 2-2020, Hoà thượng
Thích Tuệ Sỹ được ủy thác đảm nhận trách nhiệm xử lý thường vụ Viện Tăng Thống.
Sau khi đọc những dòng thơ trữ tình với lời thơ thật tha thiết, ta có thể hỏi:
một nhà sư có thể viết một bài thơ tuyệt diệu về tình yêu như vậy sao? Hay là
thiền sư vẫn chưa thoát khỏi vòng tục lụy? Vẫn còn mắc phải những vấn vương
tình ái?
Trong một
bài viết năm 1988 về Tuệ Sĩ và Lê Mạnh Thát, học giả Phạm Công Thiện nhận xét:
“Tuệ Sỹ có tâm hồn thi sĩ chơi vơi, sống trọn vẹn trong thế giới nghệ thuật và
thi ca, thổi sáo, chơi dương cầm, làm thơ, say mê thi sĩ Ðức Hoelderlin, đọc
hết toàn tập Đường thi ngay nguyên tác, viết một tác phẩm sâu sắc thơ mộng nhan
đề Tô Ðông Pha, Những phương trời viễn mộng. […] Từ lúc hãy còn rất nhỏ cho tới
lớn khôn trưởng thành, Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát đều sống một đời tu hành khắc khổ
và trong sạch hoàn toàn, không bao giờ ham mê danh vọng thế tục, không bao giờ
để ý đến địa vị xã hội và chẳng bao giờ biết đến tiền bạc lợi lộc cho chính bản
thân.” (1)
Thiết nghĩ,
chúng ta có thể nhìn vấn đề như sau: Hoà thượng Tuệ Sỹ là một học giả đa tài,
một chuyên gia về Phật học, một nhà lý luận về tư tưởng Đông Tây, và một nhà
thơ xuất sắc hiếm có. Từ xưa đến nay, tình yêu là nguồn cảm hứng chủ yếu của
thơ. Không một nhà thơ lớn nào có thể bỏ qua lãnh vực đó, và Tuệ Sỹ đã chứng tỏ
ông cũng là một nhà thơ lớn trong chính lãnh vực dồi dào xúc cảm nhất của thơ.
Ông biết rất
rõ tâm lý con người để có thể diễn tả một cách thuyết phục những lối đi thơ
mộng của tình yêu, những tâm tư thầm kín của lòng người, mà không nhất thiết
biểu lộ những tình cảm của riêng mình.
Mặt khác,
trong những câu thơ nói về tình yêu, chúng ta nghĩ là tình yêu thơ mộng nam-nữ,
nhưng thật ra có thể đó chỉ là biểu hiện trong thi ca của một tình rộng lớn hơn
là tình người. Trong tập Giấc mơ Trường Sơn chúng tôi có trích dẫn trên
đây một bài thơ ngắn tựa là “Một thoáng chiêm bao”:
Người mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khoé môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bất tận
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao.
Chúng ta
hiểu là nhà thơ nói về một người thiếu nữ do các chi tiết “mắt biếc ngây thơ”,
“khoé môi cười”… Tác giả Tuệ Sỹ hay lập lại một số ý tưởng, dùng lại những câu
văn, ngôn từ cũ trong một sáng tác mới. Thì đây, khoảng 30 năm sau những sáng
tác gom trong tập Giấc mơ Trường Sơn, trong một tập thơ mới, Những điệp khúc cho dương cầm xuất
bản năm 2009 (2), bài thơ mang số 22 lập lại những tình cảm tha thiết với cùng
những ngôn từ quen thuộc:
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói,
Vẫn yêu người từ khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Nhưng trùng dương ngưng đọng cánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt trời sao.
Cũng những
lời lẽ đó nhưng chúng ta lại nhận thấy tình cảm ở đây chính là tình người bao
la, vẫn bàng bạc trong một số lớn thi phẩm của Thiền sư Thích Tuệ Sỹ.
Chính tác
giả Tuệ Sỹ đã quan niệm rằng cuộc đời của nhà thơ không phải là sống với mộng
mơ mà thật là một cuộc đời khổ hạnh: “Người làm thơ, cuộc đời bị đày ải truân
chuyên, trong đó cũng có cái ảo diệu của vị chua, vị mặn. Suốt đời học Thiền,
suốt đời vẫn đày đọa thân tâm, đày đọa trong cái Không và cái Tĩnh. Đày đọa đó
mà kỳ thực không là đày đọa. Cũng vậy, suốt đời làm thơ thì suốt đời khổ lụy
lao đao, nhưng không là khổ lụy lao đao. Chỗ ảo diệu đó, chưa đạt đến cõi
thượng thừa của thi ca, làm sao hiểu nổi?” (3).
Vĩnh Đào
(1) Phạm
Công Thiện, “Hai vị thiền sư”, Báo Nguồn Sống số 16-17, San Jose, California, 1989.
(2) Những điệp khúc cho dương cầm –
Refrains pour piano, NXB Phương Đông, 2009. Gồm 23 bài thơ ngắn,
song ngữ Việt-Pháp đối chiếu, do nữ họa sĩ Pháp Dominique de Miscault chuyển
ngữ và trình bày.
(3) Tuệ Sỹ, Tô Đông Pha những phương trời
viễn mộng, nxb Ca Dao, Sài Gòn, 1973.
No comments:
Post a Comment