Sunday, January 30, 2022

14- Bình thơ: Tập thơ Ngoài Ô Cửa (Sơn Nguyễn) - Kiều Giang

 

LỜI TỰA

(Tập thơ NGOÀI Ô CỬA) 

Kiều Giang

 

Ngôn ngữ của loài người mà tinh hoa của nó là Văn Chương, phải chăng đó là sự ủy nhiệm vĩ đại dành cho con người từ khi “loài sậy biết tư duy” bất chợt hiện diện nơi mặt đất như một cảm hứng của tạo tác.

Sơn Nguyên đến với thơ như một định mệnh, một sự thôi thúc vô tình của cuộc nhân sinh, như lời của văn hào Pháp Marcel Proust: “Cuộc nhân sinh thực sự, mà cuối cùng sẽ được hiển lộ, cuộc nhân sinh duy nhất được sống một cách trọn vẹn, là văn chương”.

Tôi và Sơn Nguyên quen nhau chưa lâu, nhưng anh em hình như đã hiểu nhau tự thuở xa xưa nào, phải chăng là chút duyên tri ngộ giữa trần gian.

Rồi một ngày anh đưa tôi bản thảo tập thơ mới viết (sau tập Lục Bát Nghìn Trùng mà vừa mới khai sinh đã chiếm một vị trí rất trang trọng trong lòng bạn đọc khắp nơi), mang tựa là Ngoài Ô Cửa. Tôi hăm hở và thú vị dấn bước thêm vào thế giới thơ của Sơn Nguyên. 68 bài thơ gần như đã cuốn hút tôi từ bài đầu đến bài cuối. Tôi như đã nhập vào hồn thơ của tác giả, không còn sự ngăn cách giữa người viết và người đọc.

Đọc cái tựa “Ngoài Ô Cửa”, tôi bỗng giật mình, sao có sự trùng hợp lý thú giữa cái nhìn của Sơn Nguyên trong nội dung tập thơ của mình và triết lý về ĐẠO, cách đây đã hơn hai ngàn năm của Lão Tử, một hiền triết Trung Hoa: “Bất khuy dũ nhi kiến thiên Đạo” (không nhìn ra cửa sổ mà hiểu được Đạo trời), như chỉ cần đi vào Tận cùng của Tiểu Ngã Atman sẽ tìm được Đại Ngã Brahman trong Upanishad của triết học Ấn Độ.

Tôi cũng có sự liên tưởng đến cách nhìn ra “Ngoài Ô Cửa” của nhà thơ người Anh William Blake, trong The Marriage of Heaven and Hell : “If the doors of perception were cleansed everything would appear to man as it is, infinite”(Nếu những cánh cửa của nhận thức được giữ sạch sẽ, mọi thứ sẽ hiện ra với con người đúng với bản chất của nó, là vô hạn). Phải chăng “Ngoài Ô Cửa” ở đây cũng chính là “ngoài cửa sổ hồn thơ” của tác giả?

Một phần nào trong bài viết này, tôi muốn nói đến cái “Đạo” và “cánh cửa nhận thức được giữ sạch sẽ” trong thơ Sơn Nguyên, hay tác giả còn đi xa hơn nữa để thi vị hóa tiếng thở dài của trần gian!

Sơn Nguyên đã nấp sau cánh cửa của tâm hồn mình để nhìn ra thế giới, ôi cái thế giới ngập tràn âm nhạc và thi ca cùng những khắc khoải về sự nghịch lý đã tạo thành dòng nhân sinh đầy hương hoa nhưng cũng đầy bất hạnh. Tác giả đã khá tài tình trong việc sử dụng ngôn ngữ hiện thực với ngôn ngữ trừu tượng để diễn đạt tính nghịch lý của hiện thể vô thường như: “âm nhạc của bão giông”, “những hợp âm run rẩy”. Ngoài ô cửa kia, trong “nét bút lăn tròn” của Sơn Nguyên là những hình tượng nổi bật của thao thức trần gian. Từ khúc dương cầm của Beethoven đến “cô gái thành Vienna xỏa tóc” đã làm cho ngôn ngữ của anh trổ bông ngan ngát:


“Bên ngoài ô cửa,
âm nhạc của bão giông
bản rock thường hằng,
tuôn chảy xuống mong manh những hợp âm run rẩy
…..
định mệnh. không phải là thứ để sợ hãi
mảnh đất của âm nhạc và thi ca
nằm ngoài ô cửa…”
(Ngoài ô cửa)

Thật khó mà tìm ra con đường để bước qua “khung cửa hẹp” đi vào tâm hồn nhà thơ Sơn Nguyên, khi mà những dòng thơ anh như giòng suối tinh khiết chứa đầy ẩn dụ và hiện thực huyền ảo đang tuôn chảy. Một kiểu nghệ thuật thi ca kết hợp giữa truyền thống và hiện đại được nhà thơ vận dụng khá nhuần nhuyễn và tài tình. Ít ai có thể đào sâu tính nghịch lý trong cách biểu cảm nỗi trăn trở, về những vết rách khó lành trong cuộc đời, trong miền đất lạ đầy nỗi cô liêu:


“Miền đất lạ đưa người vào cuộc lữ,
Thắp cô liêu bằng ngôn ngữ nụ cười
.....
Như cung phím dạo bài ca tan vỡ,
Hát đi em cho thấm giọng lưu đày
…..
Nghe hơi thở tự vườn xưa lạnh buốt
Vết rách buồn còn giọt lệ khô rơi”
(Vết rách)

Nhưng nhà thơ đã ôm thân phận vào lòng mình để tạo ra một thứ huyền ngôn, hé lộ nụ cười miên viễn, làm phục sinh một thân phận tơ non mơn mởn, đối mặt với từng phút giây của hiện thể cỗi già, vì biết rằng chết đi là để sinh ra. Hạnh phúc đơn sơ đang đứng chờ trước ngõ như chiếc chìa khóa mở cửa cho tiếng thở dài và giải phóng nỗi cô đơn, đó là nỗi ám ảnh mà cũng là bắt đầu của sự sáng tạo. Trong bài Chiếc Chìa Khóa, nhà thơ viết: 


“Đừng thở than bóng đêm nào có lỗi
có ánh sáng nào không đến từ bóng tối. đâu em?
…. Chiếc chìa khóa nằm trong ngăn tủ
nơi cất giữ tiếng thở dài và thường trụ nỗi cô đơn…”
(Chiếc Chìa Khóa)

Và trong cái “khoảnh khắc” trở về với Nhất Thể đó, hồn thơ lại sống dậy bao rung cảm, vạn vật như đang reo ca trong trăn trở nhiệm mầu. Ngôn ngữ thơ của anh đôi khi nằm ngoài câu chữ luôn biến hóa khôn lường, để trở thành huyền ảo, nói như Archibald Macleish “ Bài thơ có khi không nên có nghĩa, nó chỉ hiện hữu thôi”. Nhà thơ như chơi đùa trên sự đa dạng của những cái được biểu thị, tạo dòng suối thao thức, vừa cay đắng vừa ngọt ngào trên phận người muôn thuở suy tư, nẻo “đi - về” chìm trong giông bão, cũng có khi rộn rã tiếng chim, rực rỡ bướm vàng:


“Đường về ngõ hạnh,
Bướm vàng khép cánh lim dim.”
(Nẻo về)

Sơn Nguyên thường sử dụng sự nghịch lý trong thi pháp của mình, vì thực ra “trạng thái mơ hồ khó hiểu chính là sự bắt đầu của kiến thức” (Kahli Gibran). Mỗi bài thơ đều bao gồm những nghịch lý. Nghịch lý là vần điệu, tập hợp được ý ngĩa và phản nghĩa: một cơ hội gặp gỡ ở một nơi chốn trong thời gian. Thơ Sơn Nguyên đã bắt đầu vượt qua truyền thống để tiến gần đến hiện đại. Một thứ ngôn ngữ làm cho người đọc không thể lường trước, nó cho phép từ này kết hợp làm rung lên những từ khác, tạo nên những hợp âm hoàn hảo của mỹ học. Thơ có khi phải dám quay lưng lại với vần, vần điệu có ngay trong ý nghĩa của từ, đi vào sự rung cảm không biên giới.

Sơn Nguyên còn mượn cả “Khúc Requiem”(Khúc cầu hồn), một sáng tác âm nhạc của Mozart viết năm 1791, rồi cũng như Virgilius kết hàng vạn câu thơ thành chiếc thuyền tình chở Dante đi vào luyện ngục để cứu rỗi linh hồn của kiếp nhân sinh vừa thánh thiện vừa tội lỗi, vừa khóc than vừa cợt đùa lên thân phận muôn đời cần cứu rỗi của con người.

Những linh hồn trong miền luyện ngục kia, một ngày nào đó đã thành:


“Hồn đá lạnh giữa trùng vây tan tác
Đã co ro vét cạn gió đông về
Đã lênh láng những vuông chiều sa mạc
Khượi tro tàn ngồi mặc khải đêm khuya
….Mây chẳng thể rót đầy con nước cạn,
Gió nghiêng mình nghe sỏi đá bơ vơ”
(Khúc Requiem)

Để rồi tác giả đang “rót rượu chờ”, mời những linh hồn, những thân phận bơ vơ kia, và sẽ còn mời cả chính mình giữa một thế giới huyễn hoặc mênh mông trong dòng nhạc suy tưởng của thiên tài Mozart.

Thân phận con người là một cái gì mơ hồ, huyền ảo, mênh mông nhưng lại hữu hạn và đầy bi đát. Nhà thơ đi từ thân phận của riêng mình đến thân phận của đồng loại. Trên con đường đầy bão giông nhưng cũng ngập tràn hương hoa ấy, nhà thơ bắt gặp lại chính bản thân mình trong nỗi xao xuyến cùng cực. Chính vì thế, tư duy trong thơ Sơn Nguyên chính là duy tư ngược, tư duy đa chiều, để nhận ra rằng, ngay trong tận cùng của nỗi khổ đau, con người vẫn tìm thấy ý nghĩa sống trong chính thân phận mình. Nỗi khắc khoải về thân phận trong anh thật xót xa và ray rứt như một “Vết Bỏng” giữa dòng đời huyễn mộng:

“Tay quờ với giữa khoảng không ảo vọng
Ôm vào lòng vết bỏng của ngàn năm”
…Dòng sông đó chập chờn trăng huyễn mộng
Đêm bềnh bồng vết bỏng chạm hư không”
(Vết Bỏng)

Cô đơn là tất mệnh của hữu thể tư duy, mà trước hết, văn thi sĩ là những người luôn chìm đắm trong xao xuyến về phận người, lặn ngụp trong bão giông của suy tưởng. Chính nỗi cô đơn trong thân phận mình đã làm cho con người luôn hoài nghi và đau đớn do những tác động gần như ngẫu nhiên phi chủ thể của xã hội mang lại, triền miên và vô cớ.

Trong nền văn học thế giới, cô đơn vẫn là đề tài “cháy bỏng” trong nhiều tác phẩm, đặc biệt từ Kafka, qua Marquez đến Coetzee. Với Sơn Nguyên, ta cũng tìm thấy nỗi cô đơn ấy xoáy sâu vào hồn anh đến nỗi dù cho “khúc mộ chiều” cũng không chôn cất nổi cô liêu:


“Thôi nhé người ơi! Khúc mộ chiều
Lệ nào chôn cất được cô liêu”.
(Khúc mộ chiều)

Để cứu rỗi thân phận trầm kha trong nỗi cô đơn ấy, cái mà Sơn Nguyên tìm được “ngoài ô cửa”, để bù đắp cho tất mệnh hữu hạn của thân phận kia là gì, phải chăng đó chính là tình yêu? Tình yêu lứa đôi hay tình yêu giữa con người với nhau, cũng đều là liều thần dược xoa dịu nỗi đau của sự cùng khổ và cô đơn dọc theo tháng năm của hữu thể bất toàn. Tình yêu như là một sức mạnh làm chuyển biến và nâng Tâm linh của vũ trụ lên cao hơn nữa, vì khi yêu, con người đã cố sống tốt hơn.

Đối với Sơn Nguyên, tình yêu là chính là sự bắt đầu nhưng cũng là cứu cánh của một đời người, vì chỉ có tình yêu mới cứu rỗi con người trong cõi nhân gian khỏi nỗi cô đơn và bất hạnh, nó để lại trong anh những vết hằn của năm tháng, vì “dấu chân người len kín cả đời tôi” hay “ Khoảnh khắc này sẽ lộng lẫy cả trăm năm” (Người tình). Chính vì thế mà những hình ảnh của người yêu là cả một trời thu lộng lẫy làm cho anh nhớ từng phím rung đang thăng hoa trong tóc nàng. Cuộc gặp gỡ thần tiên của anh và nàng nhẹ như gió thở đầu mây và giọt yêu thương của anh dành cho nàng là những giọt lưu đày vào cái hố thẳm yêu thương của bây giờ và mãi mãi. Cho nên khi mà “Đất khách không nương người viễn xứ” , lúc anh trở về, anh lại phải ngậm ngùi:


“Mắt ai ướt cả mùa thu ấy
Để lại bên chiều một ánh rơi”
(Mắt ai ướt cả mùa thu ấy)

Từ đó nỗi hoài vọng về người yêu mãnh liệt đến nỗi làm cho “hoang phế đền đài”, và lòng đớn đau như loài “hạc núi khóc niềm đau lỡ tổ”. Đó là những hình tượng độc đáo làm cho hồn thơ bay bổng, tạo nên phong cách đặc trưng của thơ Sơn Nguyên. Phải chăng từ xương thịt của mình nên Adam cũng không bao giờ chịu mất đi phần xương thịt đó. Eva trong thực tế hay trong huyền thoại cũng không bao giờ bức ra khỏi Adam. Hạnh phúc và tội lỗi của loài người cuối cùng cũng chỉ từ nơi này?

Có lẽ dòng suối trong xanh êm đềm chảy qua tập thơ NGOÀI Ô CỬA chính là Thân Phận và Tình Yêu. Tiếp theo bản năng Libido mà Freud tiếp nhận từ tay Chúa để thăng hoa thành tình yêu đôi lứa, không có gì khác hơn là tình yêu đồng loại bắt đầu từ tình yêu thương những mảnh đời bấy hạnh, thân phận phụ nữ chân yếu tay mềm, yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đền đài miếu cổ trong khuôn mặt của lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc. Tình yêu đã thấm đẫm trong thơ SN, làm cho nét nhân bản, nhân văn hiện rõ trong thơ anh. Hình ảnh người phụ nữ bàng bạc khắp nơi, ghi dấu ấn sâu thẳm trong hồn anh, là nụ cười lúc hoàng hôn, là tiếng khóc đầu đời……

Trên vai mỗi con người bao giờ cũng là một gạnh nặng của thân phận, nhưng có cái gì đó xót xa hơn, trần trụi hơn, đó là hình ảnh “gánh củi” trên vai những cụ già đang lẩn khuất đâu đó sau “mảnh vỡ tà dương”:


“Chùng gánh nặng vai gầy run mắt nắng
Nắng của trời, vị đắng của vành môi”
(Gánh củi)

Thân phận người phụ nữ có mặt trong hầu hết các tác phẩm văn học trên toàn thế giới từ cổ chí kim. Có khi họ là nguyên nhân của bao lớp sóng cuồng xô vào cuộc đời của đấng mày râu, cả giới bình dân lẩn quý tộc, như Tây Thi với Ngô Vương Phù Sai, như Josephine trong đời Napoleon, nhưng đồng thời họ cũng là hiện thân của biết bao nỗi đoạn trường trên chính phận liễu của mình, nhất là khi không may đã trở thành sương phụ nửa chừng xuân. Nỗi xót xa sâu thẳm đến tận cùng thân phận của những người phụ nữ bất hạnh được tác giả diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ thi ca trác tuyệt như se thắt, ngậm ngùi, lìa tan, hư không…


“Tôi đã thấy từ phía sau ánh mắt
Có một điều rất thật ở vành môi…
…Người thiếu phụ giữa đồi hoang bát ngát
Một đóa quỳnh lãng mạn với sương thâu..
…Rèm mi đó thì thôi em hãy khóc
Lệ trên môi là nước mắt trong lòng…”
(Góa phụ bên đồi)

Nhưng hình ảnh người phụ nữ gần gũi, cao cả, thao thiết, muôn đời là nguồn ân sủng, là nỗi xót xa và tự hào, đó là Người Mẹ. Mẹ là tinh hoa của nước mắt, là rạng rỡ của nụ cười, là tất cả sự thanh cao của ngôn ngữ con người dồn lại. Mẹ là tiếng gọi thiết tha nhất khi con biết nói tiếng người, là tiếng cuối cùng mấp máy trên môi khi con giã từ trần thế.

Với Sơn Nguyên, Mẹ là những chiều mưa con ngóng chờ nơi khung cửa, là tấm chăn bông ấm áp đêm đông, là đôi cánh ước mơ gắn lên ánh mắt, nụ cười, là những giọt mồ hôi nhỏ vào khung trời dĩ vãng. Để rồi một ngày kia mẹ bỏ con ra đi là con mất cả mặt đất lẫn bầu trời. Trong bài thơ Tấm chăn bông, anh viết:


“Nhớ tấm chăn bông
Mẹ đắp cho con mỗi khi trời mưa lạnh
Tấm chăn xưa vừa một chỗ nằm
…Con nhớ mãi bàn tay nhỏ run run
Nhét vào túi con những đồng tiền ít ỏi
….Bỗng một hôm
Một tin đau như xé nát bầu trời
Mẹ đột ngột ra đi giữa chiều mưa trút lệ…
….Chiếc chăn bông mới
Con đắp cho mẹ bây giờ
Đã trễ lắm. Mẹ ơi!!”

Để chuyển tải dòng tư tưởng cho “NGOÀI Ô CỬA”, Sơn Nguyễn đã vận dụng nhuần nhuyễn thi pháp trong cách sử dụng nhiều biện pháp tu từ, trong đó nổi bật, mới mẻ và thành công nhất là ẩn dụ (metaphor) và phúng dụ (allegory), kết hợp với nhạc điệu để tạo nên sự run rẩy của cảm xúc, làm thăng hoa tư tưởng, ý thức và cả sự lắng sâu vào tiềm thức người đọc. Đặc biệt là phương pháp lồng ghép từ cụ thể đi đôi với từ trừu tượng, ngữ cảnh và thi cảnh hiện thực với huyền ảo. Nghệ thuật thi ngôn mà ít người vận dụng được đó là cách biến đổi loại từ, một cách làm giàu cho kho tàng ngôn ngữ, như trong câu thơ: “khỏa thân nỗi buồn sa mạc”. Trong câu này nỗi buồn là một danh từ, sa mạc cũng là một danh từ, nhưng tác giả đã biến đổi nó thành tính từ để bổ nghĩa cho danh từ nỗi buồn. Nỗi buồn sa mạc là sao, độc giả phải nhập vào tác giả để tự trả lời. Bàng bạc trong thơ SN sử dụng khá nhiều thi pháp này và công cụ ẩn giấu cũng là nét đặc trưng trong thơ anh. Phương pháp dùng từ đó kích thích tư duy và nâng tầm cảm thụ nghệ thuật của người đọc. Có khi, người ta có thể biến một danh từ thành động từ như trong câu thơ sau đây của nhà thơ Tuân Lê:


 “Người qua đây nhé, đừng lay
Ta đang thần thoại bên cây phong trần”.
 

Trong đó ta thấy từ thần thoại là một danh từ đã được dùng như một động từ, rất mới lạ, huyễn hoặc.

Sơn Nguyên vốn không phải theo nghiệp văn từ lúc mới vào đời. Anh tốt nghiệp đại học ngành khoa học tự nhiên, nhưng có lẽ “hồn thơ’ đã nhập vào anh như một định mệnh để thôi thúc anh bước vào “cuộc nhân sinh thật sự, duy nhất và trọn vẹn, đó là văn chương”. Do đó, tuy rằng số tác phẩm anh đã xuất bản không nhiều, nhưng đã gây được ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

Văn chương không phải là chuyện phù phiếm, nhưng văn chương nhất thiết cũng không phải là cánh đồng hoa dại, nó phải là công việc thiết yếu của sự rung cảm con tim và ánh sáng của trí tuệ, làm bệ phóng và định hướng cho tương lai đầy hương hoa của văn minh và nhân bản.

Và tôi tin tưởng rằng tập thơ NGOÀI Ô CỬA cũng sẽ đem lại được một tiếng vang nhất định trong nền thi ca Việt Nam hiện đại.

Kiều Giang, Tháng 9/2021.

 

P/s: Chân thành cảm ơn nhà văn nhà thơ Kiều Giang, dưới ngòi bút tinh tế và đầy thu hút, đã giới thiệu tập thơ “NGOÀI Ô CỬA” đến bạn đọc gần xa.

No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...