LỜI TỰA
(Tập thơ NGOÀI Ô CỬA)
Kiều Giang
Ngôn ngữ của loài
người mà tinh hoa của nó là Văn Chương, phải chăng đó là sự ủy nhiệm vĩ đại
dành cho con người từ khi “loài sậy biết tư duy” bất chợt hiện diện nơi mặt đất
như một cảm hứng của tạo tác.
Sơn Nguyên đến với thơ
như một định mệnh, một sự thôi thúc vô tình của cuộc nhân sinh, như lời của văn
hào Pháp Marcel Proust: “Cuộc nhân sinh thực sự, mà cuối cùng sẽ được hiển lộ,
cuộc nhân sinh duy nhất được sống một cách trọn vẹn, là văn chương”.
Tôi và Sơn Nguyên quen
nhau chưa lâu, nhưng anh em hình như đã hiểu nhau tự thuở xa xưa nào, phải
chăng là chút duyên tri ngộ giữa trần gian.
Rồi một ngày anh đưa
tôi bản thảo tập thơ mới viết (sau tập Lục Bát Nghìn Trùng mà vừa mới khai sinh
đã chiếm một vị trí rất trang trọng trong lòng bạn đọc khắp nơi), mang tựa là
Ngoài Ô Cửa. Tôi hăm hở và thú vị dấn bước thêm vào thế giới thơ của Sơn
Nguyên. 68 bài thơ gần như đã cuốn hút tôi từ bài đầu đến bài cuối. Tôi như đã
nhập vào hồn thơ của tác giả, không còn sự ngăn cách giữa người viết và người
đọc.
Đọc cái tựa “Ngoài Ô
Cửa”, tôi bỗng giật mình, sao có sự trùng hợp lý thú giữa cái nhìn của Sơn
Nguyên trong nội dung tập thơ của mình và triết lý về ĐẠO, cách đây đã hơn hai
ngàn năm của Lão Tử, một hiền triết Trung Hoa: “Bất khuy dũ nhi kiến thiên Đạo”
(không nhìn ra cửa sổ mà hiểu được Đạo trời), như chỉ cần đi vào Tận cùng của
Tiểu Ngã Atman sẽ tìm được Đại Ngã Brahman trong Upanishad của triết học Ấn Độ.
Tôi cũng có sự liên
tưởng đến cách nhìn ra “Ngoài Ô Cửa” của nhà thơ người Anh William Blake, trong
The Marriage of Heaven and Hell : “If the doors of perception were cleansed
everything would appear to man as it is, infinite”(Nếu những cánh cửa của nhận
thức được giữ sạch sẽ, mọi thứ sẽ hiện ra với con người đúng với bản chất của
nó, là vô hạn). Phải chăng “Ngoài Ô Cửa” ở đây cũng chính là “ngoài cửa sổ hồn
thơ” của tác giả?
Một phần nào trong bài
viết này, tôi muốn nói đến cái “Đạo” và “cánh cửa nhận thức được giữ sạch sẽ”
trong thơ Sơn Nguyên, hay tác giả còn đi xa hơn nữa để thi vị hóa tiếng thở dài
của trần gian!
Sơn Nguyên đã nấp sau
cánh cửa của tâm hồn mình để nhìn ra thế giới, ôi cái thế giới ngập tràn âm
nhạc và thi ca cùng những khắc khoải về sự nghịch lý đã tạo thành dòng nhân
sinh đầy hương hoa nhưng cũng đầy bất hạnh. Tác giả đã khá tài tình trong việc
sử dụng ngôn ngữ hiện thực với ngôn ngữ trừu tượng để diễn đạt tính nghịch lý
của hiện thể vô thường như: “âm nhạc của bão giông”, “những hợp âm run rẩy”.
Ngoài ô cửa kia, trong “nét bút lăn tròn” của Sơn Nguyên là những hình tượng
nổi bật của thao thức trần gian. Từ khúc dương cầm của Beethoven đến “cô gái
thành Vienna xỏa tóc” đã làm cho ngôn ngữ của anh trổ bông ngan ngát:
âm nhạc của bão giông
bản rock thường hằng,
tuôn chảy xuống mong manh những hợp âm run rẩy
…..
định mệnh. không phải là thứ để sợ hãi
mảnh đất của âm nhạc và thi ca
nằm ngoài ô cửa…”
(Ngoài ô cửa)
Thật khó mà tìm ra con
đường để bước qua “khung cửa hẹp” đi vào tâm hồn nhà thơ Sơn Nguyên, khi mà
những dòng thơ anh như giòng suối tinh khiết chứa đầy ẩn dụ và hiện thực huyền
ảo đang tuôn chảy. Một kiểu nghệ thuật thi ca kết hợp giữa truyền thống và hiện
đại được nhà thơ vận dụng khá nhuần nhuyễn và tài tình. Ít ai có thể đào sâu
tính nghịch lý trong cách biểu cảm nỗi trăn trở, về những vết rách khó lành
trong cuộc đời, trong miền đất lạ đầy nỗi cô liêu:
Thắp cô liêu bằng ngôn ngữ nụ cười
.....
Như cung phím dạo bài ca tan vỡ,
Hát đi em cho thấm giọng lưu đày
…..
Nghe hơi thở tự vườn xưa lạnh buốt
Vết rách buồn còn giọt lệ khô rơi”
(Vết rách)
Nhưng nhà thơ đã ôm
thân phận vào lòng mình để tạo ra một thứ huyền ngôn, hé lộ nụ cười miên viễn,
làm phục sinh một thân phận tơ non mơn mởn, đối mặt với từng phút giây của hiện
thể cỗi già, vì biết rằng chết đi là để sinh ra. Hạnh phúc đơn sơ đang đứng chờ
trước ngõ như chiếc chìa khóa mở cửa cho tiếng thở dài và giải phóng nỗi cô
đơn, đó là nỗi ám ảnh mà cũng là bắt đầu của sự sáng tạo. Trong bài Chiếc Chìa
Khóa, nhà thơ viết:
có ánh sáng nào không đến từ bóng tối. đâu em?
…. Chiếc chìa khóa nằm trong ngăn tủ
nơi cất giữ tiếng thở dài và thường trụ nỗi cô đơn…”
(Chiếc Chìa Khóa)
Và trong cái “khoảnh
khắc” trở về với Nhất Thể đó, hồn thơ lại sống dậy bao rung cảm, vạn vật như
đang reo ca trong trăn trở nhiệm mầu. Ngôn ngữ thơ của anh đôi khi nằm ngoài
câu chữ luôn biến hóa khôn lường, để trở thành huyền ảo, nói như Archibald
Macleish “ Bài thơ có khi không nên có nghĩa, nó chỉ hiện hữu thôi”. Nhà thơ
như chơi đùa trên sự đa dạng của những cái được biểu thị, tạo dòng suối thao
thức, vừa cay đắng vừa ngọt ngào trên phận người muôn thuở suy tư, nẻo “đi -
về” chìm trong giông bão, cũng có khi rộn rã tiếng chim, rực rỡ bướm vàng:
Bướm vàng khép cánh lim dim.”
(Nẻo về)
Sơn Nguyên thường sử
dụng sự nghịch lý trong thi pháp của mình, vì thực ra “trạng thái mơ hồ khó
hiểu chính là sự bắt đầu của kiến thức” (Kahli Gibran). Mỗi bài thơ đều bao gồm
những nghịch lý. Nghịch lý là vần điệu, tập hợp được ý ngĩa và phản nghĩa: một
cơ hội gặp gỡ ở một nơi chốn trong thời gian. Thơ Sơn Nguyên đã bắt đầu vượt
qua truyền thống để tiến gần đến hiện đại. Một thứ ngôn ngữ làm cho người đọc
không thể lường trước, nó cho phép từ này kết hợp làm rung lên những từ khác,
tạo nên những hợp âm hoàn hảo của mỹ học. Thơ có khi phải dám quay lưng lại với
vần, vần điệu có ngay trong ý nghĩa của từ, đi vào sự rung cảm không biên giới.
Sơn Nguyên còn mượn cả
“Khúc Requiem”(Khúc cầu hồn), một sáng tác âm nhạc của Mozart viết năm 1791,
rồi cũng như Virgilius kết hàng vạn câu thơ thành chiếc thuyền tình chở Dante
đi vào luyện ngục để cứu rỗi linh hồn của kiếp nhân sinh vừa thánh thiện vừa
tội lỗi, vừa khóc than vừa cợt đùa lên thân phận muôn đời cần cứu rỗi của con
người.
Những linh hồn trong
miền luyện ngục kia, một ngày nào đó đã thành:
Đã co ro vét cạn gió đông về
Đã lênh láng những vuông chiều sa mạc
Khượi tro tàn ngồi mặc khải đêm khuya
….Mây chẳng thể rót đầy con nước cạn,
Gió nghiêng mình nghe sỏi đá bơ vơ”
(Khúc Requiem)
Để rồi tác giả đang
“rót rượu chờ”, mời những linh hồn, những thân phận bơ vơ kia, và sẽ còn mời cả
chính mình giữa một thế giới huyễn hoặc mênh mông trong dòng nhạc suy tưởng của
thiên tài Mozart.
Thân phận con người là
một cái gì mơ hồ, huyền ảo, mênh mông nhưng lại hữu hạn và đầy bi đát. Nhà thơ
đi từ thân phận của riêng mình đến thân phận của đồng loại. Trên con đường đầy
bão giông nhưng cũng ngập tràn hương hoa ấy, nhà thơ bắt gặp lại chính bản thân
mình trong nỗi xao xuyến cùng cực. Chính vì thế, tư duy trong thơ Sơn Nguyên
chính là duy tư ngược, tư duy đa chiều, để nhận ra rằng, ngay trong tận cùng
của nỗi khổ đau, con người vẫn tìm thấy ý nghĩa sống trong chính thân phận
mình. Nỗi khắc khoải về thân phận trong anh thật xót xa và ray rứt như một “Vết
Bỏng” giữa dòng đời huyễn mộng:
Ôm vào lòng vết bỏng của ngàn năm”
…Dòng sông đó chập chờn trăng huyễn mộng
Đêm bềnh bồng vết bỏng chạm hư không”
(Vết Bỏng)
Cô đơn là tất mệnh của
hữu thể tư duy, mà trước hết, văn thi sĩ là những người luôn chìm đắm trong xao
xuyến về phận người, lặn ngụp trong bão giông của suy tưởng. Chính nỗi cô đơn
trong thân phận mình đã làm cho con người luôn hoài nghi và đau đớn do những
tác động gần như ngẫu nhiên phi chủ thể của xã hội mang lại, triền miên và vô
cớ.
Trong nền văn học thế
giới, cô đơn vẫn là đề tài “cháy bỏng” trong nhiều tác phẩm, đặc biệt từ Kafka,
qua Marquez đến Coetzee. Với Sơn Nguyên, ta cũng tìm thấy nỗi cô đơn ấy xoáy
sâu vào hồn anh đến nỗi dù cho “khúc mộ chiều” cũng không chôn cất nổi cô liêu:
Lệ nào chôn cất được cô liêu”.
(Khúc mộ chiều)
Để cứu rỗi thân phận
trầm kha trong nỗi cô đơn ấy, cái mà Sơn Nguyên tìm được “ngoài ô cửa”, để bù
đắp cho tất mệnh hữu hạn của thân phận kia là gì, phải chăng đó chính là tình
yêu? Tình yêu lứa đôi hay tình yêu giữa con người với nhau, cũng đều là liều
thần dược xoa dịu nỗi đau của sự cùng khổ và cô đơn dọc theo tháng năm của hữu
thể bất toàn. Tình yêu như là một sức mạnh làm chuyển biến và nâng Tâm linh của
vũ trụ lên cao hơn nữa, vì khi yêu, con người đã cố sống tốt hơn.
Đối với Sơn Nguyên,
tình yêu là chính là sự bắt đầu nhưng cũng là cứu cánh của một đời người, vì
chỉ có tình yêu mới cứu rỗi con người trong cõi nhân gian khỏi nỗi cô đơn và
bất hạnh, nó để lại trong anh những vết hằn của năm tháng, vì “dấu chân người
len kín cả đời tôi” hay “ Khoảnh khắc này sẽ lộng lẫy cả trăm năm” (Người
tình). Chính vì thế mà những hình ảnh của người yêu là cả một trời thu lộng lẫy
làm cho anh nhớ từng phím rung đang thăng hoa trong tóc nàng. Cuộc gặp gỡ thần
tiên của anh và nàng nhẹ như gió thở đầu mây và giọt yêu thương của anh dành
cho nàng là những giọt lưu đày vào cái hố thẳm yêu thương của bây giờ và mãi
mãi. Cho nên khi mà “Đất khách không nương người viễn xứ” , lúc anh trở về, anh
lại phải ngậm ngùi:
Để lại bên chiều một ánh rơi”
(Mắt ai ướt cả mùa thu ấy)
Từ đó nỗi hoài vọng về
người yêu mãnh liệt đến nỗi làm cho “hoang phế đền đài”, và lòng đớn đau như
loài “hạc núi khóc niềm đau lỡ tổ”. Đó là những hình tượng độc đáo làm cho hồn
thơ bay bổng, tạo nên phong cách đặc trưng của thơ Sơn Nguyên. Phải chăng từ
xương thịt của mình nên Adam cũng không bao giờ chịu mất đi phần xương thịt đó.
Eva trong thực tế hay trong huyền thoại cũng không bao giờ bức ra khỏi Adam.
Hạnh phúc và tội lỗi của loài người cuối cùng cũng chỉ từ nơi này?
Có lẽ dòng suối trong
xanh êm đềm chảy qua tập thơ NGOÀI Ô CỬA chính là Thân Phận và Tình Yêu. Tiếp
theo bản năng Libido mà Freud tiếp nhận từ tay Chúa để thăng hoa thành tình yêu
đôi lứa, không có gì khác hơn là tình yêu đồng loại bắt đầu từ tình yêu thương
những mảnh đời bấy hạnh, thân phận phụ nữ chân yếu tay mềm, yêu gia đình, yêu
quê hương, yêu đền đài miếu cổ trong khuôn mặt của lịch sử mấy ngàn năm của dân
tộc. Tình yêu đã thấm đẫm trong thơ SN, làm cho nét nhân bản, nhân văn hiện rõ
trong thơ anh. Hình ảnh người phụ nữ bàng bạc khắp nơi, ghi dấu ấn sâu thẳm
trong hồn anh, là nụ cười lúc hoàng hôn, là tiếng khóc đầu đời……
Trên vai mỗi con người
bao giờ cũng là một gạnh nặng của thân phận, nhưng có cái gì đó xót xa hơn,
trần trụi hơn, đó là hình ảnh “gánh củi” trên vai những cụ già đang lẩn khuất
đâu đó sau “mảnh vỡ tà dương”:
Nắng của trời, vị đắng của vành môi”
(Gánh củi)
Thân phận người phụ nữ
có mặt trong hầu hết các tác phẩm văn học trên toàn thế giới từ cổ chí kim. Có
khi họ là nguyên nhân của bao lớp sóng cuồng xô vào cuộc đời của đấng mày râu,
cả giới bình dân lẩn quý tộc, như Tây Thi với Ngô Vương Phù Sai, như Josephine
trong đời Napoleon, nhưng đồng thời họ cũng là hiện thân của biết bao nỗi đoạn
trường trên chính phận liễu của mình, nhất là khi không may đã trở thành sương
phụ nửa chừng xuân. Nỗi xót xa sâu thẳm đến tận cùng thân phận của những người
phụ nữ bất hạnh được tác giả diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ thi ca trác tuyệt như
se thắt, ngậm ngùi, lìa tan, hư không…
Có một điều rất thật ở vành môi…
…Người thiếu phụ giữa đồi hoang bát ngát
Một đóa quỳnh lãng mạn với sương thâu..
…Rèm mi đó thì thôi em hãy khóc
Lệ trên môi là nước mắt trong lòng…”
(Góa phụ bên đồi)
Nhưng hình ảnh người
phụ nữ gần gũi, cao cả, thao thiết, muôn đời là nguồn ân sủng, là nỗi xót xa và
tự hào, đó là Người Mẹ. Mẹ là tinh hoa của nước mắt, là rạng rỡ của nụ cười, là
tất cả sự thanh cao của ngôn ngữ con người dồn lại. Mẹ là tiếng gọi thiết tha
nhất khi con biết nói tiếng người, là tiếng cuối cùng mấp máy trên môi khi con
giã từ trần thế.
Với Sơn Nguyên, Mẹ là
những chiều mưa con ngóng chờ nơi khung cửa, là tấm chăn bông ấm áp đêm đông,
là đôi cánh ước mơ gắn lên ánh mắt, nụ cười, là những giọt mồ hôi nhỏ vào khung
trời dĩ vãng. Để rồi một ngày kia mẹ bỏ con ra đi là con mất cả mặt đất lẫn bầu
trời. Trong bài thơ Tấm chăn bông, anh viết:
Mẹ đắp cho con mỗi khi trời mưa lạnh
Tấm chăn xưa vừa một chỗ nằm
…Con nhớ mãi bàn tay nhỏ run run
Nhét vào túi con những đồng tiền ít ỏi
….Bỗng một hôm
Một tin đau như xé nát bầu trời
Mẹ đột ngột ra đi giữa chiều mưa trút lệ…
….Chiếc chăn bông mới
Con đắp cho mẹ bây giờ
Đã trễ lắm. Mẹ ơi!!”
Để chuyển tải dòng tư
tưởng cho “NGOÀI Ô CỬA”, Sơn Nguyễn đã vận dụng nhuần nhuyễn thi pháp trong
cách sử dụng nhiều biện pháp tu từ, trong đó nổi bật, mới mẻ và thành công nhất
là ẩn dụ (metaphor) và phúng dụ (allegory), kết hợp với nhạc điệu để tạo nên sự
run rẩy của cảm xúc, làm thăng hoa tư tưởng, ý thức và cả sự lắng sâu vào tiềm
thức người đọc. Đặc biệt là phương pháp lồng ghép từ cụ thể đi đôi với từ trừu
tượng, ngữ cảnh và thi cảnh hiện thực với huyền ảo. Nghệ thuật thi ngôn mà ít
người vận dụng được đó là cách biến đổi loại từ, một cách làm giàu cho kho tàng
ngôn ngữ, như trong câu thơ: “khỏa thân nỗi buồn sa mạc”. Trong câu này nỗi
buồn là một danh từ, sa mạc cũng là một danh từ, nhưng tác giả đã biến đổi nó thành
tính từ để bổ nghĩa cho danh từ nỗi buồn. Nỗi buồn sa mạc là sao, độc giả phải
nhập vào tác giả để tự trả lời. Bàng bạc trong thơ SN sử dụng khá nhiều thi
pháp này và công cụ ẩn giấu cũng là nét đặc trưng trong thơ anh. Phương pháp
dùng từ đó kích thích tư duy và nâng tầm cảm thụ nghệ thuật của người đọc. Có
khi, người ta có thể biến một danh từ thành động từ như trong câu thơ sau đây
của nhà thơ Tuân Lê:
Ta đang thần thoại bên cây phong trần”.
Trong đó ta thấy từ
thần thoại là một danh từ đã được dùng như một động từ, rất mới lạ, huyễn hoặc.
Sơn Nguyên vốn không
phải theo nghiệp văn từ lúc mới vào đời. Anh tốt nghiệp đại học ngành khoa học
tự nhiên, nhưng có lẽ “hồn thơ’ đã nhập vào anh như một định mệnh để thôi thúc
anh bước vào “cuộc nhân sinh thật sự, duy nhất và trọn vẹn, đó là văn chương”.
Do đó, tuy rằng số tác phẩm anh đã xuất bản không nhiều, nhưng đã gây được ấn
tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Văn chương không phải
là chuyện phù phiếm, nhưng văn chương nhất thiết cũng không phải là cánh đồng
hoa dại, nó phải là công việc thiết yếu của sự rung cảm con tim và ánh sáng của
trí tuệ, làm bệ phóng và định hướng cho tương lai đầy hương hoa của văn minh và
nhân bản.
Và tôi tin tưởng rằng
tập thơ NGOÀI Ô CỬA cũng sẽ đem lại được một tiếng vang nhất định trong nền thi
ca Việt Nam hiện đại.
Kiều Giang, Tháng
9/2021.
P/s: Chân thành cảm ơn
nhà văn nhà thơ Kiều Giang, dưới ngòi bút tinh tế và đầy thu hút, đã giới thiệu
tập thơ “NGOÀI Ô CỬA” đến bạn đọc gần xa.
No comments:
Post a Comment