Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã "an nhiên thị tịch" tại Thất Lắng Nghe ở Tổ đình Từ Hiếu vào 0h sáng 22-01-2022
Sáng mở FB ra, thấy
thông tin Người đã ra đi. Sau một lúc tĩnh lặng hướng tâm về, con xin mạo muội
viết vài dòng tri ân và kính tiễn Người.
Những tâm hồn lớn, tư
tưởng lớn, trái tim lớn...khi đến đi giữa đời không làm tổn hại cho đời mà chỉ
để lại những giá trị, tinh thần, tâm linh và an bình cho nhân loại.
Với Phật Tử Việt Nam
nói chung và hàng Tu Sĩ nói riêng, không ai mà không biết đến danh xưng của
Người qua những tác phẩm văn học Phật Giáo mà Người đã để lại trong hơn nữa thế
kỷ qua. Riêng đối với thế giới, Người đã âm thầm mang đến cho nhân loại một cái
nhìn mới về Phật Giáo, về lối sống chánh niệm và tỉnh thức đầy thiết thực và
linh hoạt.
Những tháng năm qua,
được làm việc, hướng dẫn tu tập và tiếp xúc trò chuyện với những thiền sinh ở
các nước, đặc biệt là các nước phương tây như Anh, Pháp, Mỹ....không ít người
trong họ tìm đến thiền Vipassana vì đã từng biết đến thiền và Phật Giáo thông
qua cái tên Master Thich Nhat Hanh và Plum Village (Làng Mai). Nhờ đó mà họ
biết tìm về cội nguồn Phật Giáo để tu học một cách kính cẩn và nghiêm túc để
thể nghiệm Chân Lý qua lời Phật dạy.
Có thể nói, ngoài
những giá trị tinh thần và tâm linh Người đã để lại cho dân tộc, trong một hình
thức nào đó, Người đã truyền cảm hứng về một lối sống tỉnh thức cho người
Phương Tây và giới thiệu cho thế giới biết đến Phật Giáo Việt Nam một cách sinh
động nhất qua những gì Người đã sống, đã dựng xây và cống hiến trong cả cuộc
đời hoằng pháp lợi sanh vì hạnh phúc và an bình cho nhân loại.
Con xin cung kính đãnh
lễ tri ân và kính tiễn Giác Linh Người.
Chiang Mai 22/01/2022 -
Thích Tánh Tuệ
Người giác ngộ cỡi
trên những đợt sóng sanh tử mà đi...
- Thiền Sư Thích Nhất
Hạnh -
“Người giác ngộ cỡi
trên những đợt sóng sanh tử mà đi một cách thản nhiên.“
Vạn vật vô thường,
bệnh tật và tai nạn có thể xảy ra cho bạn và cho những người thân của bạn bất
cứ lúc nào. Sống trên đời, bạn phải chấp nhận sự thật ấy. Nếu bạn sống có chánh
niệm trong từng giây phút, nếu bạn sống một cách sâu sắc những ngày tháng của
bạn và tiếp xử đẹp đẽ những người chung quanh thì bạn không cần gì phải sợ hãi
và bạn không có gì phải hối hận dù có gì bất trắc xảy ra.
Nếu bạn biết sinh và
diệt là hai mặt của sự sống thì bạn thấy được rằng: "Sinh là để diệt và
diệt là để sinh". Nếu đất mẹ đã đưa bạn ra đời một lần thì đất mẹ sẽ đưa
bạn ra đời trăm vạn lần khác, do đó bạn sẽ không sợ hãi buồn khổ mỗi lần đất mẹ
đưa hai cánh tay ra đón mời bạn trở lại. Bồ Tát Quán Thế Âm được miêu tả là
người đã vượt ra khỏi mọi sợ hãi và thường hiến tặng cho chúng sinh món quà quý
giá vô cùng gọi là vô úy thí. Vô úy nghĩa là sự không sợ hãi. Sự không sợ hãi
này là kết quả của công trình thiền quán về tự tính không sinh, không diệt,
không thêm, không bớt của vạn pháp.
Tâm kinh Bát Nhã được
trì tụng như một bản văn nói về hạnh Vô úy. Quán chiếu được tự tính duyên sinh
và vô ngã của vạn vật thì bạn thấy được tính cách không sinh, không diệt ấy và
thoát được sự sợ hãi.
Người giác ngộ cỡi
trên những đợt sóng sanh tử mà đi một cách thản nhiên.
Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt
Thích Ca Mâu Ni
Thích Tánh Tuệ
Thiền Sư Thích Nhất
Hạnh (1926 - 2022)
Thông tin từ Làng Mai
cho biết Thiền sư Thích Hạnh mới qua đời lúc 0 giờ ngày 22/1/2022 ở Việt Nam
[1]. Ông thọ 95 tuổi. Việt Nam đã mất một người con ưu tú, và Phật giáo thế
giới đã mất một trong những danh nhân ưu tú nhứt. Ông hơn là một thiền sư, mà còn
là giảng sư, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động vì hoà bình thế giới.
Ông được xem là nhà
lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ 2 ở phương Tây, chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt
Ma. Ông là tác giả của hơn 100 cuốn sách xuất bản từ trước 1975 cho đến nay.
Vào hiệu sách nào ở phương Tây đều có 2 khu sách dành cho ông và Đức Đạt Lai
Lạt Ma. Một số cuốn sách nổi tiếng mà tôi còn giữ trong tủ sách như Đường xưa
mây trắng, Phật trong ta, Chúa trong ta, v.v.
Thích Nhất Hạnh tên
thật là Nguyễn Xuân Bảo, sanh ngày 11/10/1926 ở Thừa Thiên, Huế. Thời niên
thiếu, ông đã được tiếp xúc với sách vở và tư liệu Phật giáo, nên năm 16 tuổi
ông quyết định xuất gia tại chùa Từ Hiếu (Huế) và được hòa thượng Thanh Quý
Châu Thật đặt pháp danh là Trừng Quang và pháp hiệu là Nhất Hạnh. Qua nhiều năm
học hành và tu tập, ông chánh thức trở thành nhà sư năm 23 tuổi. Ông theo phái
tu Đại Thừa.
Thiền sư Nhất Hạnh là
một thành viên quan trọng trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (không
phải giáo hội ngày nay mà người ta hay đùa là 'giáo hội quốc doanh') trước 1975
ở miền Nam. Tuy nhiên, Phật giáo thời đó có 2 'trường phái' không thuận nhau:
trường phái Ấn Quang do Thích Trí Quang và Thích Nhất Hạnh lãnh đạo, và trường
phái Việt Nam Quốc Tự do hoà thượng Thích Tâm châu lãnh đạo. Theo đánh giá của
chánh quyền VNCH, phái Ấn Quang thiên về cánh tả và ủng hộ Mặt trận Dân tộc
Giải phóng Miền Nam, còn phái Việt Nam Quốc Tự thì ôn hoà.
Thiền sư Nhất Hạnh là
một trong những thành viên sáng lập Viện Đại học Vạn Hạnh vào năm 1964. (Hai
sáng lập viên khác là học giả Hồ Hữu Tường và Đoàn Viết Hoạt, cả hai đều đi tù
sau 1975). Vạn Hạnh là một viện đại học tư thục Phật Giáo đầu tiên ở Việt Nam,
và dưới sự điều hành của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Ban giảng huấn
Viện Đại học Vạn Hạnh bao gồm nhiều học giả nổi tiếng như Thích Tuệ Sỹ, Thích
Trí Siêu (tức thầy Lê Mạnh Thát) và Thích nữ Trí Hải. Tuy nhiên, sau 1975 thì
Viện Đại học Vạn Hạnh bị nhà cầm quyền mới giải thể, và cả hai thầy Tuệ Sỹ và
Trí Siêu bị kêu án tử hình.
Cuộc đời của thiền sư
Thích Nhất Hạnh có thể nói là khá ... sóng gió. Ông là người đề xướng trường
phái "Engaged Buddhism" (Phật giáo Dấn thân). Ông từng tuyên bố
"Khi bom dội lên đầu chúng sinh, bạn không thể ngồi trong thiền viện.
Thiền là nhận thức về những gì đang xảy ra, không chỉ bên trong mà còn xung
quanh cơ thể và cảm xúc của bạn". Do đó, theo ông, người theo Phật không
chỉ tu thân, mà còn phải hành động vì một mục tiêu hay một chủ trương. Dấn thân
do đó bao gồm những việc làm như nhận trẻ mồ côi để nuôi, làm thiện nguyện,
thậm chí nhập ngũ, hay nói chung là 'nhập thể'. Nhập thể là đi tu không phải
chỉ giới hạn trong chùa, trong thiền am, mà phải ra ngoài xã hội là tác động.
Cả đời của ông có thể
nói là hành động theo trường phái dấn thân đó. Ngay từ thập niên 1960, ông đã
lập trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ở Sài Gòn, qui tụ hơn 10,000 thanh niên
và sinh viên. Thanh niên Phụng sự thực chất là một tổ chức xã hội dân sự nhằm
cứu trợ trẻ mồ côi trong chiến tranh. Ông cho biết triết lí đằng sau của Thanh
niên Phụng sự là: "Phật giáo phải gắn liền với cuộc sống thường nhật, với
nỗi đau của bạn và những người xung quanh. Bạn phải học cách giúp đỡ một đứa
trẻ bị thương trong lúc duy trì hơi thở chánh niệm. Bạn phải giữ cho bản thân
khỏi lạc lối trong hành động. Hành động phải đi cùng thiền".
Một trong những dấn
thân của ông gây ra nhiều tranh cãi là chống chiến tranh. Ngay từ giữa thập
niên 1960 ông đã kêu gọi “Đã tới lúc hai miền Nam – Bắc của Việt Nam họp lại để
tìm ra một giải pháp để chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, để mọi người Việt
Nam đều được sống trong hòa bình và lòng tôn trọng lẫn nhau”. Nhưng dĩ nhiên,
lời kêu gọi của ông chỉ được một bên nghe, còn một bên thì xem ông là ... phản
động. Thiền sư Nhất Hạnh là bạn của Martin Luther King và từng kêu gọi ông
chống chiến tranh Việt Nam, tìm biện pháp hòa bình và tự do. Ông từng được đề
cử giải thưởng Nobel Hoà Bình vào năm 1967.
Trong thập niên 1960s,
ông đi thuyết trình hoà bình ở nhiều nơi ngoài Việt nam, kể cả Đại học Columbia
(nơi ông tốt nghiệp thạc sĩ). Ông kêu gọi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Những hành động dấn thân của ông không được chánh quyền VNCH 'mặn mà'. Do đó,
từ sau Hoà đàm Paris 1973, ông không được quay về Việt Nam.
Không về được Việt
Nam, ông sáng lập cộng đồng Phật giáo Sweet Potato (Khoai Lang) gần Paris vào
năm 1975. Năm 1982, thì cộng đồng dời về vùng Dordogne thuộc tây nam nước Pháp
và xây dựng nên Tu viện Làng Mai (Đạo tràng Mai Thôn) cho đến ngày nay. Ở đây
(Làng Mai) ông tổ chức nhiều 'workshop' tu hành cho các nhà lãnh đạo chánh trị,
doanh nghiệp, chuyên gia, trí thức phương Tây và trở nên một địa chỉ nối tiếng
trên thế giới. Ông có rất nhiều đệ tử từ Làng Mai.
Sau nhiều lần 'thương
thảo', mãi đến năm 2005, ông mới được nhà cầm quyền cho về Việt Nam. Trong
chuyến đi đó, có hàng trăm tăng ni người Việt và người nước ngoài tháp tùng.
Sau đó, ông còn có dịp về Việt Nam để tổ chức các khóa tu, giảng dạy, và diễn
giả trong đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc năm 2008.
Năm 2014, thiền sư
Thích Nhất Hạnh bị đột quị và phải điều trị ở Làng Mai (Thái Lan). Dù vậy, ông
vẫn tích cực tham gia các hoạt động Phật giáo. Năm 2018, thiền sư Nhất Hạnh về
lại Việt Nam và ở chùa Từ Hiếu (nơi ông là một lãnh đạo tinh thần), với ước
nguyện “lá rụng về cội”. Ông viên tịch tại Từ Hiếu lúc 0 giờ ngày 22/1/2022.
Thiền sư Thích Nhất
Hạnh đã tạ thế, nhưng những di sản tinh thần của ông thì sẽ còn ở lại với đời
rất lâu. Mỗi chúng ta có thể không có cùng quan điểm với ông về cuộc chiến vừa
qua, nhưng tôi nghĩ ai cũng đồng ý rằng ông là một người Việt Nam xuất sắc và
đã để lại dấu ấn Việt Nam rất sâu đậm trên trường quốc tế. Xin nhắc lại rằng
ông là nhân vật Phật giáo có ảnh hưởng lớn nhứt trên thế giới (chỉ sau Đức Đạt
Lai Lạt Ma).
Ông để lại cho đời rất
nhiều câu nói mang tính wisdom. Chẳng hạn như "Khi một người nào đó làm cho
bạn đau khổ, bạn nên hiểu rằng chính người đó bị khổ đau lắm trong người và nỗi
khổ đó lan tràn sang người khác. Không nên phạt người đó; nên giúp người
đó." Hay câu “Our own life has to be our message” (cuộc đời của chúng ta
phải là một thông điệp của chúng ta). Thông điệp từ cuộc đời và sự nghiệp của
ông là đấu tranh ôn hoà, hoà bình, hoà giải và hoà hợp.
Nhiều ý tưởng của ông
sẽ còn khai thác trong tương lai. Riêng cá nhân tôi, nhắc đến ông là tôi nghĩ
ngay đến bài "Bông hồng cài áo". Đó là một đoản văn viết về mẹ rất
hay, và sau này được phổ thành một ca khúc rất nổi tiếng.
Tôi chưa bao giờ tu
tập với ông, nhưng lúc nào cũng xem ông như một người Thầy (viết hoa). Những
câu nói của ông là kim chỉ nam cho cuộc sống mà tôi lựa chọn. Cầu mong hương
hồn thầy Thích Nhất Hạnh siêu thoát nơi cõi vĩnh hằng.
Nguyễn Tuấn
Dạ, thưa Thầy.
Sáng nay con dậy rất sớm, sớm hơn tất cả những ngày của năm sắp qua. Con đặt chân ra đường trước khi mặt trời kịp mọc lên khỏi núi. Con thấy mình lờ mờ như sương.
Dạ, thưa Thầy.
Sáng nay con vừa dỡ bó cẩm chướng tàn ra khỏi bình. Con nhớ lúc đem hoa về nhà, những cánh mỏng cam xinh xắn cọ vào tay một mùi ngọt dịu dàng. Mươi ngày sau cánh hoa chuyển trắng, con biết hoa đang phai đi hình thái rực rỡ nhưng đời sống thì còn đó. Con nhớ Thầy dạy nhìn hoa mà nhớ vô thường nên khi dỡ bình, con đã gởi lại một lời cảm ơn.
Dạ, thưa Thầy.
Sáng nay trên đường ngang dọc, con nghe tin Thầy đi. Trong phút chốc hơi thở con nghẹn lại ở một ngã chật chội nơi lồng ngực. Trong phút chốc nước mắt con dâng lên như lũ ngầm ngập giếng sâu. Trong phút chốc con như chiếc túi ba gang hỗn độn cả đậu cả thóc, bởi bất thần trộn lẫn cảm giác chơi vơi, đau xót, tiếc thương và sự biết ơn ngập tràn.
Hai dòng suối chảy cuộn nơi tim con, một trong mát khi nghĩ về sự tiếp nối trong lời Thầy dạy và một cuộn đau khi nghĩ về sự mất mát, sự phân biệt trong căn tính của con.
Dạ, thưa Thầy.
Dù không sửng sốt bất ngờ, con vẫn rúng động bởi những điều đã biết trước. Tụi con đã từng trò chuyện với nhau thật lâu rằng Thầy lớn tuổi rồi và sức khoẻ như vậy chắc cũng gần phải ra đi. Ừ, có lẽ mình sẽ đối diện bằng cảm giác lẫn lộn, thì đây, hôm nay tụi con ở trong điều này, rúng động nhưng không kinh ngạc.
Dạ, thưa Thầy.
Con đã để cho mình được trầm mình vào tất cả những lẫn lộn hoang mang đó, rồi con cho mình ngồi xuống nương tựa vào tiếng Đại Hồng Chung của Làng Mai San Diego. Một vị sư chú tâm thỉnh chuông trên đỉnh đồi, loang chạm đến từng cành cây ngọn cỏ. Trời vẫn mờ sương. Tiếng chim trên mấy ngọn dừa ngoài ban công hoà với tiếng chim chào ngày mới trong live video. Con đã cho phép mình ngồi yên hết hồi chuông lớn sáu mươi phút giữa những ngổn ngang gấp rút phải-làm của hôm nay.
Dạ, thưa Thầy.
Hôm nay con ngồi yên không dễ dàng, với khởi đầu đau thương xâu xé, là cái chết, là trống trải, là mất mát. Nước mắt con rớt xuống lòng tay, ẩn trú giữa những kẽ ngón khép hờ rồi tan mất.
Con vẫn cho phép mình ngồi yên, dò dẫm vào ra cùng hơi thở, những ý nghĩ trong lắng xuống rồi tan mất như khói. Con nhớ lời Thầy kể về mẹ của Thầy, “tôi thấy mẹ tôi chưa bao giờ mất cả, và những đau khổ xót xa trước kia chỉ là những ảo giác trong một giấc mộng… Tôi thấy một cách rất hiện thực rằng sự sinh diệt của mẹ tôi là một cái gì do tôi tạo ra mà không phải là một thực tại khách quan. Sự hiện thực của mẹ tôi không tuỳ thuộc vào sinh diệt; không phải nhờ sinh mà mẹ tôi có, không phải vì diệt mà mẹ tôi không có… Tôi có thể thấy mẹ tôi bất cứ ở đâu và lúc nào tôi muốn.”
Dạ, thưa Thầy.
Con biết con đã ngồi yên với rất nhiều người, trong tiếng chuông này. Con không có. Thời gian không có. Không gian không có. Con ở đây. Bây giờ. Ở đây. Thầy ở đây. Con biết con đã ngồi yên với Thầy. Con không dùng cái trí hiểu tiếp nối để an ủi mình rằng Thầy đâu có mất. Con biết rằng Thầy đâu mất. Thầy đi về cái bao la. Con biết cũng vẫn gặp Thầy bởi cùng trong cái bao la đó. Con luôn biết ơn sự có mặt kiên nhẫn, trái tim bao dung và trí tuệ bát nhã của Thầy trong mọi không gian và thời gian.
Dạ, thưa Thầy.
Hôm nay Thầy đi.
Chiếc xe rác vẫn đúng giờ ghé tới. Một email tin tức đầu ngày vẫn được ai đó bấm gửi rớt vào hộp thư. Chiếc van nhỏ màu xanh vẫn đậu vào ô 284 nhỏ xíu. Lũ chim cu gù vẫn uống nước nơi hộp treo ở ban công tầng dưới.
Chỉ là, hôm nay Thầy đi.
Dạ, Thầy đi.
Con xin phép tiễn Thầy về “đường xưa, mây trắng”. Thầy về đó gặp Thầy của Thầy, nghen!
Dạ, Thầy đi.
Dạ, Thầy đi.
Dạ, Thầy đi.
Phiên Nghiên, ngày 22 tháng 1 năm 2022
TẠP SỰ 20: “I WILL CONTINUE, ALWAYS” -
- Đạo Sinh -
Thầy Nhất Hạnh vừa từ
giã Phật tử Việt Nam chúng ta, không chỉ Phật tử Việt Nam, mà còn tất cả những
ai trên toàn trái đất đã từng học Pháp và thực hành Pháp với Thầy.
Trong tất cả các ngôn
từ được con người sử dụng để chỉ cho cái chết thì hai chữ “qua đời” trong tiếng
Việt, và “passing away” trong tiếng Anh là các từ diễn tả đúng Pháp nhất nội
hàm của sự kiện này.
Với Pháp, không gian
của cuộc sống là “con đường”; thời gian là “chiều dài” bất tận của cuộc lữ
hành; và chúng ta chính là “lữ khách”. Cả ba khái niệm này đều có thể tìm thấy
trong hai danh hiệu của bậc giác ngộ viên mãn: Như Lai & Thiện Thệ (bậc
đến-và-đi nhiệm mầu như thế!)
Thánh điển mô tả một
phân đoạn trong cuộc lữ hành của đức Phật Thích-ca khởi đầu từ cung trời
Đâu-suất như một Bồ-tát “nhất sinh bổ xứ”, đi qua hành tinh xanh chúng ta hơn
40 mươi năm, và rồi lại tiếp tục đi qua các quốc độ Phật khác. Đây chính là ý
nghĩa những gì Thầy Nhất Hạnh có lần đã phát biểu:
“I WILL CONTINUE,
ALWAYS.”
Đạo Phật là con đường
giác ngộ. Luôn luôn có sự hiện diện của hai hạng người trên con đường: những
người đang âm thầm đặt từng bước chân hướng về giác ngộ & các bậc giác ngộ
với sứ mệnh hoằng pháp lợi sinh. Niết-bàn tịch diệt là sự vắng lặng của phiền
não và vô minh, không phải là chặng cuối của con đường. Con đường này không có
chặng cuối (a road without end). Và vì thế, cuộc lữ hành cũng không có kết thúc
(a journey without goal).
Các bạn phải suy nghĩ
kỹ trước khi đặt chân lên con đường này. Đó là con đường không có một quán trọ
nào cho các bạn nghỉ chân. Và cũng không có điểm đến nào cho các bạn trút bỏ
hành trang. Đây cũng chính là điều Bồ-tát Địa Tạng có lần đã cảm thán:
“Khi nào địa ngục
trống không thì ta mới có cơ duyên để về với Phật.”
“ĐỪNG XÂY THÁP CHO THẦY”
- Thiền Sư Nhất Hạnh
“Thầy không muốn sau này quý vị xây cho thầy một ngôi tháp ở Tổ Đình. Xây tháp như thế sẽ không có ý nghĩa gì nếu ngày hôm nay quý vị không nối tiếp được những gì thầy đang trao truyền. Thầy rất không thích chuyện lấy một mớ tro từ hình hài của thầy rồi bỏ vào trong một cái hũ, rồi đặt vào trong tháp. Thầy không phải là cái nắm tro đó. Không có lý thầy chỉ là cái nắm tro ấy hay sao?!
Thầy là một thực tại linh động, đang sống, đang có mặt khắp nơi. Trong các sư chú và các sư cô đều có thầy, trong các vị cư sĩ quen biết đều có thầy. Ở chỗ nào mà có thiền hành, thiền toạ, có pháp đàm, có ăn cơm yên lặng, có Sám Pháp Địa Xúc là có thầy!
Không được nhốt thầy, bỏ thầy vào trong một cái hũ nhỏ rồi đặt thầy vào trong một cái tháp. Thầy không muốn thầy có một cái tháp. Tốn đất chùa vô ích. Sư thầy Đàm Nguyện đã xây cho thầy một cái tháp ở chùa Đình Quán. Đã lỡ xây rồi thì phải ghi lên trước tháp mấy chữ: “Trong này không có gì.” Thầy không nằm trong tháp ấy đâu. “There is nothing inside”. Nếu người ta vẫn chưa hiểu thì ghi thêm một câu nữa “Ngoài kia cũng không có gì.” Và nếu vẫn còn chưa hiểu thì ghi thêm một câu chót là “Nếu có gì thì nó có trong bước chân và hơi thở của bạn.” Đó là điều thầy căn dặn các thầy, các sư cô ở chùa Đình Quán – Hà Nội và ở Tổ Đình.
Đừng phí thì giờ nghĩ
đến chuyện tìm đất xây tháp cho thầy. Đó không phải là điều thầy nghĩ tới. Nếu
có một tảng đá có sẵn thì để vào trong hốc đá bản thảo của một cuốn sách của
thầy như cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức thì tảng đá đó có thầy nhiều hơn là một
cái tháp trong đó có một nắm tro. Đem tro mà rải hết ra ngoài để nuôi cây nuôi
cỏ, cho cỏ cho cây lớn lên. Đừng có ngăn ngừa sự tiếp nối của nắm tro ấy…”.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
Thiền sư Thích Nhất
Hạnh, thế danh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm Bính Dần (1926) tại làng Thành Trung,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Là con kế út trong gia đình có sáu anh
chị em, cha là cụ ông Nguyễn Đình Phúc, mẹ là cụ bà Trần Thị Dĩ.
- Năm 1942, xuất gia
tại Tổ đình Từ Hiếu với Thiền sư Thanh Quý Chân Thật, được ban pháp danh Trừng
Quang.
- Tháng 9 năm 1945,
thọ giới Sa di với Bổn sư, được ban pháp tự Phùng Xuân.
- Năm 1947, theo học
Phật học đường Báo Quốc, Huế.
- Năm 1949, rời Huế
vào Sài Gòn tiếp tục tu học. Bắt đầu sự nghiệp sáng tác với pháp hiệu Thích
Nhất Hạnh, một trong nhiều bút hiệu của Thiền sư. Đồng sáng lập chùa Ấn Quang,
làm giáo thọ Phật học đường Nam Việt.
- Tháng 10 năm 1951,
thọ Giới Lớn tại chùa Ấn Quang, Sài Gòn với Hòa thượng Đường đầu Thích Đôn Hậu.
- Năm 1954: Tổng Hội
Phật Giáo giao trách nhiệm cải cách giáo dục, làm Giám học Phật Học Đường Nam
Việt.
- Năm 1955, làm chủ
bút Nguyệt san Phật giáo Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Tổng hội Phật Giáo
Việt Nam.
- Năm 1957, thành lập
Phương Bối Am, Bảo Lộc.
- Năm 1961 – 1963,
tham học, nghiên cứu và giảng dạy tại đại học Princeton và Columbia, Hoa Kỳ.
Sáng tác đoản văn “Bông Hồng Cài Áo”.
- Năm 1964, được mời
trở về Việt Nam tham gia lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
(GHPGVNTN), thành lập Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn tại chùa Pháp Hội (tiền
thân của Viện đại học Vạn Hạnh) và nhà xuất bản Lá Bối. Làm chủ bút tuần san
Hải Triều Âm, cơ quan ngôn luận của Viện Hóa Đạo.
Năm 1965, thành lập
trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Năm 1966, thành lập Dòng tu Tiếp Hiện.
- Ngày 1.5.1966, được
Bổn sư phú pháp truyền đăng tại chùa Từ Hiếu và được kế thừa Trú trì Tổ đình Từ
Hiếu sau khi Bổn sư viên tịch.
- Ngày 11.05.1966, rời
Việt Nam kêu gọi Hòa bình, bắt đầu 39 năm lưu vong.
- Năm 1967, được mục
sư Martin Luther King Jr. đề cử giải Nobel Hòa bình.
- Năm 1968 – 1973, vận
động hòa bình cho Hội nghị Hòa bình Paris (1968-1973). Trong thời gian này,
được mời dạy môn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” tại trường đại học Sorbonne, Pháp
Quốc và soạn Việt Nam Phật giáo Sử luận 3 tập với bút hiệu Nguyễn Lang.
- Tháng 9 năm 1970,
được GHPGVNTN chính thức đề cử làm lãnh đạo Phái đoàn Phật giáo Hòa bình tại
Hội nghị Paris.
- Tháng 5 năm 1970,
tham gia soạn thảo Tuyên ngôn Menton về vấn đề tàn hại sinh môi, ô nhiễm môi
trường và sự gia tăng dân số. Cùng các cộng sự gặp ông U Thant, Tổng thư ký
Liên Hiệp Quốc và được ông cam kết yểm trợ.
- Năm 1972, chủ trì
Hội nghị Môi trường có tên Đại Đồng với nội dung: sinh thái học bề sâu, tính
tương tức và tầm quan trọng của việc bảo hộ trái đất.
- Năm 1971, thành lập
Phương Vân Am, Paris.
- Năm 1976, cứu giúp
thuyền nhân và thực hiện chương trình “Máu chảy ruột mềm”.
- Năm 1982, thành lập
Đạo tràng Mai Thôn tại Pháp.
- Năm 1998, thành lập
Tu viện Thanh Sơn, Hoa Kỳ; năm 2000, thành lập Tu viện Lộc Uyển, Hoa Kỳ.
- Năm 1999, cùng với
các chủ nhân giải Nobel Hòa bình soạn thảo Tuyên ngôn 2000 về một nền hòa bình
và bất bạo động cho thiên niên kỷ mới.
- Năm 2005, trở về
Việt Nam lần thứ nhất. Thành lập tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc.
- Năm 2007, trở về
Việt Nam lần thứ hai, tổ chức ba Đại Trai Đàn Bình Đẳng Chẩn Tế tại ba miền.
- Năm 2008, trở về
Việt Nam lần thứ ba, thuyết giảng tại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc.
- Từ năm 2008, thành
lập Viện Phật học Ứng dụng Châu Âu, Đức; Tu viện Bích Nham, Tu viện Mộc Lan,
Hoa Kỳ; Thiền đường Hơi Thở Nhẹ, Paris; Làng Mai Thái Lan; Viện Phật học Ứng
dụng Châu Á, Hong Kong; Tu viện Nhập Lưu, Úc; Ni xá Diệu Trạm, Ni xá Trạm Tịch,
Việt Nam, tiếp tục mở rộng công trình hoằng pháp và xây dựng Tăng thân trên
khắp thế giới.
- Tháng 10 năm 2018,
trở về an dưỡng tại Tổ đình Từ Hiếu, Việt Nam.
00:00 giờ ngày 22
tháng Giêng năm 2022, an nhiên thị tịch tai Thất Lắng Nghe, Tổ đình Từ Hiếu.
Nhất tâm đảnh lễ Tân
Viên Tịch, Tự Lâm Tế Tông Tứ Thập Nhị Thế, Liễu Quán Pháp Phái Đệ Bát Thế, Từ
Hiếu Tổ Đình Niên Trưởng Trú Trì, Mai Thôn Đạo Tràng Quốc Tế Khai Sơn, Huý
Thượng Trừng Hạ Quang, Tự Phùng Xuân, Hiệu Nhất Hạnh Thiền Sư, Nguyễn Công Hoà
Thượng Giác Linh.
No comments:
Post a Comment