Nhớ Người
Kỷ niệm Lể Đại Tường Cố Hòa Thượng Thiên Ân
Trầm hương thoáng lại từ đâu
Lòng nghe tất cả tiếng cầu nguyện xưa
Chuông ngân vọng đến bao giờ
Lá vàng rụng xuống thành thơ nhớ người
Về đâu những lá hoa tươi
Vườn xưa, lối cũ bóng người quanh đây
Tháp chuông vẫn ở chổ này
Đổi thay thay đổi trong ngây ngất buồn
Ai về giữa bóng hoàng hôn
Để nghe xao xuyến mãi dồn dập đau
Nhớ thương xin giữ trọn màu
Đạo tình muôn thuở mai sau vẫn còn
Ngày xưa vốn nghiệp cô đơn
Đầu thai hóa bướm bay vờn lá hoa
Trong cơn mộmg mị Ta Bà
Tiếng chuông gợi nhớ âm ba thuở nào
Chiều về lay giấc chiêm bao
Tỉnh ra mới biết trăng sao sáng hoài
Chiều nay, ai đến thăm ai
Lá vàng rụng xuống nằm dài lối đi
Mai sau còn có nghĩa gì
Đốt lò hương nguyện xin ghi tâm này
“Sắc không tự tại” nào hay
Trần gian còn đợi bàn tay độ người.
Hạt Cát
Gửi Thầy Trí Chơn và Đạo Hữu Trần Quang Thuận để kỷ niệm những ngày phục vụ đạo pháp và quê hương trong hội nghị Phật giáo tại Colombo, Tích Lan
Ta là hạt cát dòng sông
Trôi về biển cả mênh mông đất trời
Tháng ngày tỏa rộng mù khơi
Nước trong, cát trắng một đời mênh mang
Ta là một hạt cát vàng
Nằm yên giữa biển muôn ngàn năm sau
Trùng trùng sóng vỗ lòng đau
Biển ơi, có giữ nguyên màu cát không
Ta là hạt cát biển đông
Đêm ngày thao thức mãi trông lối về
Nhìn trăng, thấy rõ đường quê
Mây bay một nẻo gió về một phương
Ta là hạt cát đại dương
Vòng quanh trái đất quê hương mịt mù
Ra đi cho đến bao giờ
Ngày về sáng ấy ước mơ chẳng sờn
Ta là hạt cát cỏn con
Muôn năm thế kỷ sắc son một lòng
Biển đời vượt hết long đong
Trần gian ai đọc đôi dòng tâm tư
Bãi biển Colombo chiều 11 tháng 6 năm 1982
Nhớ Ân Sâu
Như hoa nở giữa ngày xuân
Như chim hót giữa cõi rừng mênh mông
Ngày Phật Đản rộng vô cùng
Hai ngàn năm trước vẫn không đổi đời
Lâm Tì Ni mãi xinh tươi
Vô Ưu hoa nở muôn đời còn đây
Ngày xưa về lại chốn này
Sáng nay quỳ xuống chắp tay nguyện cầu
Ngày Phật Đản nhớ ân sâu
Hương trầm tỏa rộng nhiệm mầu Pháp âm
Sắc không độ kẻ luân trầm
Kiếp người mộng ảo duy tâm trường tồn
Cúi đầu ngưỡng lạy Từ Tôn
Mặc cho dâu bể dập dồn thế nhân
Ra đời trong một hóa thân
Ta Bà thị hiện giáng trần độ sinh
Xin về nhóm lửa tâm linh
Sưởi hồn ấm lại: Lời kinh sáng này
Trùng trùng điệp điệp chắp tay
Nhớ ân Phật độ tháng ngày bình an.
Kỷ niệm Phật Đản 2526
Bước Đi
Dấu chân in mặt cát
Người đi mây trông theo
Cuộc đời là sa mạc
Biển đời thuyền nhổ neo
Mây bay qua thành phố
Trời xuống tận tam quan
Ai ngồi trên bực gỗ
Nhìn kiến bò lang thang
Tụng Kinh
Mở ra Tam Tạng kinh
Ta ngồi đọc một mình
Trăng soi sao từng chữ
Giữa đất trời lặng thinh
Thiền Sư
Thiền sư đi trên đường
Áo rộng đầy tình thương
Thời gian không níu lại
Cười vang suốt đêm trường
Malibu
Anh ngồi trên phiến đá
Sóng nước ngút ngàn dâng
Tôi ngồi bên cạnh đó
Ngàn năm rồi bâng khuâng
July 18/83
Đường Hollywood
Thấy không, sao rụng lề đường
Tên ai gắn bó đang vương kiếp này
Nghìn năm còn đó mây bay
Đôi chân bước mãi tháng ngày nghe đau
Nơi đây sáng chói sắc màu
Nhân gian rộn rịp hồn đau bao lần
Lại qua những dấu phù vân
Người ơi, có thấy tinh thần độc tôn
“Quê nhà khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng gợi buồn lòng ai …”
Patrioge Bơkstore, một chiều tắt nắng 26-4-1978
Hollywood Boulevard
Do you see the stars fallen down
Whose mane is written on the star?
Thousand years untill now the clouds are blown
Two legs moving forward forever by day and night but pain in the heart
Here there are many coloured lights
The noise of people playing
And the soul is suffering underneath
Coming and going leaving the footing like the cloud
And the inner spirit beckons
The sunset cannot see the homeland
On the river there is much smoke…
Who is sad
Những Người Đi Qua
Tưởng niệm Giác linh nhị vị cố HT Thiện Minh và HT Thiên Ân
Đêm nay ngồi đếm sao trời
Như ta lặng ngắm những người đi qua
Mênh mông thế giới Ta Bà
Thu về trong một chén trà bình minh
Làm sao đếm hết hành tinh
Trăm năm sau nữa đạo tình còn không
Người đi như chiếc lông hồng
Nắng mưa gởi lại cánh đồng thời gian
Còn đây thế giới ba ngàn
Trong tim nhân loại hân hoan đón chờ
Tọa Thiền đâu thấy bơ vơ
Lang thang từ thuở bao giờ hay chăng
Đêm rằm ta hỏi ánh trăng
Ngàn năm về trước đã tằng chiếu ai
Người đi, trong mấy năm dài
Xuyến xao ta nhớ bóng hai đời người
Bổng nhiên ta nở môi cười
Khói hương mầu nhiệm rạng ngời Hoa Nghiêm
Trùng trùng duyên khởi bên thềm
Mái chùa xưa đã lặng yên thuở nào.
Los Angeles, Oct.26, 1987
Đạt Đạo
Qua Thiền Môn: thấy trời xanh
Kim Cang kinh tụng chân thành từng trang
Khói hương quyện, cảnh mơ màng
Không gian là chiếc y vàng quấn thân
Thiền Môn xưa sạch phong trần
Kim Cang kinh khép trầm luân thoát rồi
Ta từ sanh tử về chơi
Ngồi trên chót đỉnh mỉm cười với trăng
Thân ta là giải đất bằng
Tâm ta là nước sông Hằng mênh mông
Tình ta là đóa hoa hồng
Ý ta là cả cánh đồng tâm linh
Còn đâu nữa Kim Cang kinh
Thiền Môn biến mất mà mình vô ngôn
Bình minh về ngập hoàng hôn
Kêu lên một tiếng tỉnh hồn ngàn xưa
Los Angeles, mồng 9 tháng 9 Canh Thân
Bên Cánh Song
Không thể làm sao tả hết lời
Khi chiều thu vắng bóng chiều rơi
Bao nhiêu thương nhớ vời mây nước
Lòng mẹ bao la gởi cuối trời
Quê cũ nghìn năm quá phủ phàng
Mà sao lòng mẹ ngập không gian
Mùa thu mang lại niềm vui cũ
Dù mẹ không còn giữa thế gian
Chuông vắng đâu đây xao động lòng
Mục Liên sống dậy: nước sông trong
Phù Tang mây quyện Vu Lan đến
Hiếu hạnh đương về bên cánh song
Lý trí thua rồi với tháng năm
Ôi, tình mẹ sáng hơn trăng rằm
Bấy nhiêu ôm trọn tình lưu luyến
Đất lạ, Vu Lan về viếng thăm
Tokyo, Vu Lan Nhâm Dần
Ngọn Đuốc Nữ Thần Tự Do
Kỷ niệm sinh nhật Tượng Nữ Thần Tự Do
“Happy Birthday United States
Happy Birthday Miss Liberty”
Los Angeles, chiều 4 tháng 7 năm 1986
Ngọn đuốc dâng lên cao
Như dòng sữa ngọt ngào
Tự do vào lòng bé
Trời đẹp nhờ trăng sao
Ngọn đuốc dâng lên đây
Tìm đến quê hương nầy
Muôn người tự do thở
Trong không khí vui vầy
Ngọn đuốc dâng trăm năm
Đẹp như ánh trăng rằm
Tự do là sức sống
Qua rồi đời tối tăm
Ngọn đuốc dâng lên rồi
Ánh sáng ngập đời tôi
Tự do hồi sinh lại
Hai tay, dựng xây đời
Ngọn đuốc dâng mênh mông
Tự do là vô cùng
Những ai còn kềm kẹp
Xin về một bến sông
Ngọn đuốc của Nữ Thần
Chiếu sáng khắp toàn dân
Giữa trời nước xanh biếc
Bàn tay người tương thân.
Mộng Ảo
Kỷ niệm ngày Viên Tịch của cố HT. Thích Thiên Ân
Lên chùa từ thuở ấu thơ
Áo vàng mấy tấm để chờ từ lâu
Đưa tay gõ cửa nhiệm mầu
Trăng sao chiếu sáng mái đầu Thiền Tăng
Người đi tắm mát sông Hằng
Có, không mộng ảo nói năng hão huyền
Tào khê nước chảy triền miên
Đèn khuya soi thấu đến miền thong dong
Người đi vào cõi mênh mông
Bình minh mở cửa dòng sông mây vào
Tháng ngày lãng đãng chiêm bao
Trăm năm sau nữa ai nào nhớ quên
Người đi đến cõi vô biên
Một lòng thanh thoát não phiền xa bay
Tâm kinh phủ mộng tháng ngày
Sắc không tự tại bàn tay độ người
Người đi giữ mãi nụ cười
Đôi môi nhẫn nại muôn đời còn nguyên
Pháp thân hòa với nhân duyên
Đêm nay ngồi tụng Hoa Nghiêm trước đèn.
Xa Lạ
Nhìn ra xa lạ vô cùng
Núi dâng hơi lửa, người chung mối sầu
Trời xanh mây trắng về đâu
Con chim viễn xứ qua cầu chiêm bao
Một mình ta đứng trên cao
Lắng nghe tất cả rạt rào dưới kia
Nhớ thương rủ áo ra về
Còn đây nguyên vẹn bốn bề tâm tư
Hilo, cuối năm 1978
Tiễn Biệt
Gửi Nguyên Đạt, để kỷ niệm ngày giã từ Los Angeles đi Seattle.
Chà là (Palm tree) đứng đấy tiễn đưa ai
Sáng tối, hoàng hôn ngã bóng dài
Ngất ngưỡng thân cao nhìn gió cuốn
Làm sao dựng lại: đẹp ngày mai
Dù lạ hay quen chẳng ngại ngùng
Ra đi, xây lại quãng đời chung
Đôi chân bước mãi trên đường đạo
Lý tưởng mênh mông nguyện đến cùng
Lên đường chí lớn nhớ nghe không
Phật giáo Việt Nam phải một lòng
Đã hứa trọn đời cho Đạo Pháp
Thì không quên được nợ non sông
Tiễn biệt hôm nay không tiễn biệt
Dù xa, lòng vẫn ở nơi đây
Quê hương thương nhớ trên ngòi viết
Lặng ngắm thời gian khắc khoải đầy.
Los Angeles, chiều 16-7-1978
Bất Diệt
Ai hay hoa nở bao giờ
Nhân gian tràn ngập nguồn thơ thanh bình
Xuân về mở cửa tâm linh
Trần gian còn đó mới tinh muôn đời
Cho nhau, cho một nụ cười
Trên môi nhân loại sáng ngời tình thương
Xuân Kỷ Mùi 1979
Hồn Châu Á
Gió vờn qua cây cành
Rung rinh hàng tre xanh
Gió đi không trở lại
Trời xanh mây hiền lành
Hồ thu con nhạn sang
Nước trong im mơ màng
Trăng treo cao lồng lồng
Bóng nhạn chìm mênh mang
Ngàn năm không giữ gió
Hàng tre đứng âm thầm
Hồ trong không lưu bóng
Nhạn qua rồi bặt tăm
Thao thức sao bóng chiều
Hồn Châu Á cao siêu
Ngàn năm ngàn năm vẫn
Như gấm dệt hoa thêu.
Tỉnh Giấc Chiêm Bao
Viết cho Tánh Thiện (Đ. Phước)
với những buổi công phu đầy thiền vị
Hôm qua mộng thấy tụng kinh
Tỉnh ra mới biết chính mình là trăng
Bao nhiêu cát của sông Hằng
Là bấy nhiêu kiếp đã tằng tử sinh
Lang thang, nghiệp chướng, tội tình
Con chim nó hót, bình minh đến rồi
Thời gian phủ mộng đầy nôi
Mỉm cười bé ngủ xa xôi kiếp nào
Nôi hồng tràn ngập chiêm bao
Mà nay ta đã đi vào trần gian
Đêm ngày ngồi tụng Kim Cang
Sắc không mộng huyễn cưu mang với người
Trong mơ thấy đóa hoa tươi
Bây giờ tỉnh dậy ta cười với ta
Giang tay đón cả Ta Bà
Lòng nghe rợn ngợp hằng sa kiếp rồi
Ngày xưa Trang Tử bồi hồi
Giữa mình và bướm ai ngồi ngắm nhau
Bây giờ xuân đến lòng đau
Ai mang áo cũ bạc màu mùa đông
Cho xin một đóa hoa hồng
Đem về cắm giữa giòng sông cuộc đời
Hương thơm bát ngát tình nguời
Say sưa tụng mãi những lời kinh xưa.
Los Angeles, cuối Xuân Canh Thân
Đây Ngày Phật Đản
Đây cả non sông còn vẹn mới
Đường vừa khai mạc đón người đi
Đây niềm hoài vọng ngàn thiên giới
Gót ngọc vờn hoa lưu lại gì
Đây nắng ban đầu mưa gió dứt
Cỏ cây hớn hở đượm vui nhiều
Đây người cô quạnh nằm ray rức
Như được lòng đời đón ấp yêu
Đây cảnh thanh bình đang hé dậy
Muôn chim rộn rịp hót trên cành
Đây vàng, đây bạc vừa tìm thấy
Nhựa sống dâng đầy ngập tuổi xanh
Đây ánh trăng rằm soi xứ vắng
Đêm dài quên ngủ mãi vụt say
Đây hồn dân tộc đang thầm lặng
Theo tiếng chuông ngân vọng tháng ngày
Đây cảnh chia ly vừa hội ngộ
Cảm thông, loan lạc tận bao giờ
Đây niềm giao cảm qua hơi thở
Vũ trụ chìm trong thế giới thơ
Đây phố phường trong ngày Đại Hội
Hát ca vang dội khắp đô thành
Đây đàn con dại về bên gối
Lòng mẹ bao la bát ngát tình
Đây nước sông Hương ngừng đứng lại
Soi hình Phật Đản những năm qua
Đây đoàn rước Phật đi, đi mãi
Mạch sông dâng cao khắp nước nhà
Đây những sen xinh bừng nở mạnh
Mừng ngày Phật Đản thuở xa xưa
Đây đàn chim dại vừa tung cánh
Sắc nước, trời xanh vẫn đợi chờ
Đây lá cờ thiên hồn Phật giáo
Năm màu sắc Phật lộng muôn phương
Đây hương lòng thoảng thềm tôn giáo
Phật Đản: Ngày vui khắp nẻo đường.
Phật Đản Nhớ Quê Hương
Kỷ niệm ba năm xa quê hương
Los Angeles, Mùa Phật Đản 2524
Ba năm rồi sống xa quê
Đến ngày Phật Đản chưa hề dám quên
Ở đây, bàng bạc hương Thiền
Việt Nam Phật giáo triền miên muôn đời
Ngày xưa dưới cánh hoa tươi
Hôm nay Thái Tử ra đời độ sinh
Thế gian còn đó ảnh hình
Vô Ưu hoa nở tươi sinh sắc màu
Tình người vẫn giữ trước sau
Nhớ ngày Phật Đản lòng đau không cùng
Ai mang một mối tình chung
Quê Hương, Đạo Pháp trùng trùng nở hoa
Bây giờ ray rức tâm ta
Bèo mây phận nước, xót xa phận mình
Thắp lên một nén hương trinh
Cho ngày Phật Đản đượm tình Việt Nam
Cúi đầu dưới ánh Từ Quang
Cầu mong Phật độ vô vàng đó đây
Xa cành chim nhớ thương cây
Nửa vòng trái đất mang đầy tâm tư
Quê hương nhớ tự bao giờ
Mái chùa, dân tộc, hồn thơ, ruộng vườn
Ngày Phật Đản: nhớ Quê hương
Niềm đau xin gởi mười phương kiếp người.
Nhớ Chùa
Từ thuở ra đi vắng bóng chùa
Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua
Trong tôi bừng dậy niềm chua xót
Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa
Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
Có con chim đỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng
Có những cây mai sống trọn đời
Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi
Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa
Đức Phật từ bi miệng mỉm cười
Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống mến yêu
Vì vậy làng tôi sống thái bình
Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh
Sắn khoai gạo bắp nuôi dân xóm
Xây dựng tương lai xứ sở mình
Mỗi tối dân quê đón gió lành
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh
Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao
Dân làng tắm gội lên chùa lể
Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào
Biết đến bao giờ trở lại quê
Phân vân lòng gởi nhớ nhung về
Tang thương dù có bao nhiêu nữa
Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê
Chuông vẳng nao nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
1949
Bạt 1
Đêm Nay Tròn Trăng
Nhất Hạnh tặng Huyền Không
Giầy thơm mang mang kho huyền sử
ly nước xanh cười nét mắt thủy tinh
đã cao vươn từng lớp sóng bạc đầu
và tảng đá lạnh gối sương mù
đỉnh cao gió hú
tôi thức dậy chót lưỡi tê
hạt sương ngọn cỏ trời khuya
bỗng ánh sánh xuyên ngang
lưỡi gươm lóe chớp giật
những đám mây chạy mau
phương đông giục giã tiếng kèn
chiếc áo tơi năm nào
gió đuổi lá bay …
nét bút anh
màu nâu.
Trên cành tay nám mầu sương gió
Màu nâu
Trên đồng ruộng năm nào mồ hôi tưới lúa
giờ phút này tinh cầu luân lạc giữa trời cao
lay chuyển cánh chim bằng
không gian từng vũng toé tung nổ vỡ
một mặt trời đang ngụp lặn ngoài kia
kính như mắt đỏ
ống kính tôi thu hình tiền sử
then cửa đã vừa bỏ lỏng
vạn kiếp xưa từng gài nẻo tuơng lai
sáng nay lôi ra, bên rừng chim hót
em thoát về trên ngõ biết
những búp tay chồi non, nụ hoa đọt mướp
níu không gian
bàn tay
bàn tay nâng chiếc đũa người nghệ sĩ tài ba
lùa vũ trụ âm thanh về ngưng tụ
vào đêm không tịch tịnh
chói!
lần đầu tiên đôi mắt trẻ thơ vào đời
nụ cười trong mắt bà mẹ quê
củ hành búi tóc
lá tre chiều gom đốt
không gian um khói ấm
Bụt cười sau mây hiền dịu
đêm nay tròn trăng.
Phạm Xuân Đài
Tôi cảm
thấy ngại ngùng khi định viết về thơ của thi sĩ Huyền Không. Không phải tôi
không thích thơ, trái lại là đàng khác, nhưng đây là những bài thơ nhuốm mùi
thiền, mà tôi lại chẳng có một trình độ nào về thiền cả. Nhưng rồi tôi lại tự
nhủ: sao lại phân biệt thơ thiền và thơ không thiền. Trên hết và muôn đời, thơ
là thơ, lo việc chuyển tải các trạng thái đặc biệt của tâm hồn con người, với
một ngôn ngữ riêng nhằm gây hiệu quả tối đa cho mục đích của nó. Tình yêu hay
tôn giáo cũng chỉ là các trạng thái của tâm hồn người hướng về các đối tượng
khác nhau, nhưng khí thế hiện ra thơ chúng phải được bình đẳng: phải qua các
cửa nghệ thuật để tự giới thiệu mình. Người đọc thơ có cái sung sướng là không
cần biết mình đã yêu chưa hoặc có kinh nghiệm gì về thiền định hay không mà vẫn
cứ đọc thơ tình hay thơ thiền; vần đề là những bài thơ ấy có đem lại gì cho anh
ta hay không chứ không phải anh ta phải đem lại gì cho những bài thơ ấy.
Vậy thì,
thôi sẽ bắt đầu từ mùa Xuân, mùa nở đầu cho một chu kỳ sinh tử. Từ những năm
thanh xuân của đời mình, nhà thơ Huyền Không đã cảm nhận mùa Xuân như sau:
Nghe tiếng hoa khai bổng giật mình
Sáng nay thức dậy choàng thêm áo
Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh.
Vẫn là
cái giật mình mang tính cách khám phá của muôn thuở của tuổi trẻ đối với chuyển
biến của đất trời, nhưng tác giả đã có đầy đủ sự già dặn và nhạy cảm tinh vi của
tâm thức. Nghe được tiếng hoa đang nở và giật mình vì sự kiện ấy của mùa Xuân
không phải là tài năng thính tai và mẫn cảm của đời thường mà phải là biểu hiện
của một khối tâm linh trong suốt lung linh đang mở ra thế giới và cuộc đời với
những ước hẹn cao thượng. Khả năng nhìn thấy, với mùa Xuân, “Vũ trụ muôn đời
vẫn mới tinh” là một khả năng lạc quan và trong sáng, khả năng của cải đổi
và của niềm an lạc. Khẩu khí của bài tứ tuyệt vịnh Xuân từ tuổi thanh xuân này
đã mang dáng dấp triết học và ẩn dụ của những bài tứ tuyệt đã được ngâm nga
dưới mái chùa Việt Nam từ bao nhiêu thế kỷ qua.
Nhiều năm
về sau, mùa Xuân vẫn gây cảm hứng nơi thi nhân như thủa nào, nhưng ý tứ rõ rệt
thẳm sâu hơn, lời lẽ dậm đà hơn, chứng tỏ bước đi chín mùi của thời gian trên
tâm hồn thơ cũng như tâm hồn đạo:
Lòng đêm xa vắng mở ra nhiệm màu.
Sự hiền
hòa của Phật giáo đã thấm nhập vào tâm hồn dân tộc Việt Nam từ bao giờ nhỉ? Có
phải từ buổi những chiếc thuyền từ Ấn Độ vượt biển ghé đến Giao Châu, cách đây
gần hai mươi thế kỷ, và những thiền sư lên bờ truyền giảng đạo hạnh từ bi cho
dân ta? Có phải từ đấy các ngôi chùa bắt đầu tham dự vào sinh hoạt làng xã của
cộng đồng Việt Nam, và đã đóng góp vào sự nghiệp giáo hóa ấy một cách thầm lặng
và liên tục, hết đời nầy qua đời khác? Trải qua một lịch sử dữ dằn cay đắng vì
phải luôn chống trả họa ngoại xâm cùng thiên tai, dân Việt Nam từ xưa có đạo
Phật để giữ cho tâm của mình không thành dữ dằn và cay đắng, trái lại tiến
triển đến chổ khoan dung cao thượng xứng đáng là dân tộc có văn hiến.
Trong một
làng Việt Nam nếu đình là khu hành chánh tinh thần thì chùa là nơi tỏa bóng mát
tâm linh, là môi trường hoàn toàn tự giác để tâm hồn nghỉ ngơi và hoàn thiện
chính mình.
Văn học
cận đại Việt Nam có một số tác phẩm văn xuôi đề cập về sinh hoạt chùa chiền như
Hồn Bướm Mơ Tiên, Tiêu Sơn Tráng Sĩ của Khải Hưng, Lên Chùa của Thiện Sĩ v.v…,
nhưng về thơ thì bài Nhớ Chùa của Huyền Không có lẽ là bài đầu tiên có tầm vóc
về đề tài này. Thoạt đọc Nhớ Chùa ta dể liên tưởng đến các bài thơ mang nặng
tình tự quê hương của Đoàn Văn Cừ (Chợ Tết, Đám Cưới, Mùa Xuân, Đám Hội) hay Tế
Hanh (Quê Hương, Lối Con Đường Quê) mô tả một cách sinh động các sinh hoạt và
tình cảm bình dị ngàn đời của nông thôn Việt Nam. Riêng Đoàn Văn Cừ, sau khi tả
các hoạt cảnh của hội hè bao giờ cũng kết thúc với bóng
…Một lúc sau khi tới chổ vòng quanh
Nếp chùa trắng in hình trên trời thắm
Thì cả bọn dần dần cùng khuất lẩn
Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân.
(Đám Cưới Mùa Xuân)
…Khi chuông tới bên chùa văng vẳng đánh
Trên con đường đi các làng hẻo lánh
Những người quê lũ lượt trở ra về …
(Chợ Tết)
Vệt tháp trắng in dài trên đồng vắng
Tiếng chuông tối nhặt khoan trong yên lặng
(Đám Hội)
Như muốn
khẳng định rằng cái nền không thể thiếu được trong đời sống Việt Nam chính là
đạo Phật. Nhưng đến Nhớ Chùa thì ngôi chùa làng đã tiến lên thành cận cảnh.
Có con đường nhỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi:
Yên lặng, chùa tôi ngập nắng vàng
Có những cây mai sống trọn đời
Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi
Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa
Đức Phật từ bi miệng mỉm cười.
Sinh hoạt
tôn giáo cũng như chốn tu hành tại thôn quê không gây ấn tượng như các loại hội
hè đình đám hoặc các hoạt cảnh làm ăn năng động, nhưng Huyền Không đã đưa ra
được tình cảm đằm thắm của dân làng đối với ngôi chùa của mình, không mạnh mẽ
sắc cạnh nhưng nhu hòa và lan tỏa rộng như một làn hương trầm. Đó là điều mà
hình như rất ít ngòi bút văn học nào của nước ta đã làm được. Có thể đã có
những thiên khảo luận dày thuyết phục rằng Phật giáo đã vào Việt Nam rất sớm và
ảnh hưởng sâu đậm đến tư tưởng Việt Nam ra sao, nhưng điều này thì khác hẳn:
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đâu ngôi chùa cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống mến yêu.
bởi vì
những buổi chiều êm đềm như thế, những lời kinh trong ngôi chùa cổ như thế,
tình cảm mến yêu của dân làng như thế đều là các thực tại sống, tồn tại sâu
trong thôn quê và sâu trong ký ức mỗi người chúng ta như từng tồn tại như thế
đã hàng ngàn năm.
Sau các
triều đại đầu của thời đại tự chủ, đạo phật đã thôi đóng vai quốc giáo, nhưng
vẫn tiếp tục thấm sâu vào các mạch ngầm của đời sống tiếp tục góp phần tạo nên
tâm hồn và phẩm cách của con người Việt Nam. Nên khi cho rằng:
Nếp sống muôn đời của tổ tông
Thì có
thể gây ra những tranh luận về lý trí trong một quốc gia trên nguyên tắc có
nhiều niềm tin khác nhau về tôn giáo, nhưng về tình cảm, được điều khiển một
cách kín đáo bởi vô thức, thì chúng ta thấy điều đó hầu như là tự nhiên. Có
những nơi không nên vận dụng lý trí vào vì nó chẳng được việc gì cả, như ở đây
chẳng hạn, một câu thơ về hồn dân tộc thì nên lấy hồn ta mà cảm ứng nó vậy. Khi
đọc một câu thơ lên mà nghe lòng ta xôn xao rung động thì đúng là gặp phải mạch
ngầm đã chảy miên viễn tự thâm sâu trong mỗi chúng ta tự đời não đời nào. Nhớ
Chùa chính là nhớ nổi niềm ấy đã nằm sâu trong hồn dân tộc và dài dọc theo
dòng lịch sử.
Tu hành
là một kinh nghiệm riêng tư. Nhưng một tâm hồn đạo hạnh có cách tỏa sáng riêng
của nó mà thi ca có lẽ là phương tiện chuyển tải hữu hiệu nhất.
Ai dệt đời ngoài muôn hướng
Ai khóc
Ai than
Và ai buồn vì nắng đời chưa chớm
Tìm đâu ra một sớm
Cho loài người tắm gội ý tươi xinh
(Tình Nhân Loại)
Hạnh nguyện
lớn lao ấy đã được tác giả tìm thấy giải pháp thực hiện trong đạo Phật:
Hãy dựng nên tháng ngày
Hai bàn chân
Hãy đi trên đường dài trái đất
Khắp năm châu
Sống trong lòng từ bi Đức Phật
Ngọt ngào như mật
Tình nhân loại thương nhau
(Tình Nhân Loại)
Không
những “tìm thấy giải pháp”, chính tác giả thực hiện giải pháp ấy: người là một
tu sĩ. Chính cái tư cách vừa là thiền sư vừa là thi sĩ đã tạo ra một ngưỡng cửa
trong thi ca của tác giả: bên này là tiếng nói của đời thường, bên kia là
ngưỡng cửa là tiếng nói của kinh nghiệm và cảm hứng thiền định - một vùng đất
lạ nhưng đầy quyến rũ đối với “người phàm”.
Nghe đất trời kể lại chuyện tiền thân
(Tĩnh Tọa)
Nước cứ chảy, tư tưởng dài lữ thứ
Thời gian nào do dự hỏi ta đâu
(Tĩnh Tọa)
Cuộc hành
trình đầy riêng tư của tâm và ý, cả tác động của thời gian trong trạng thái ấy,
đã được tác giả tiết lộ một phần…Chúng ta chờ đợi dẫn đi vào nhiều nẻo đường
mới lạ khác, nhưng bỗng hành trình chấm dứt ở một chổ ta không ngờ nhất:
Kìa, đóa hồng đang nở dưới trăng sao
(Tĩnh Tọa)
Ta hình
như không hiểu lắm sự thể như thế là thế nào, nhưng nếu diển đạt cảm tưởng tức
thời của mình, thì sẽ nói: một kết thúc rất thiền! Và cũng rất thơ. Vâng, tức
thời tức chưa kịp suy luận, và đó chính là cái mà nghệ thuật thi ca của thiền
tư thi sĩ đem lại cho tâm hồn và khiếu thưởng ngoạn của ta vậy.
Trạng
thái đạt đạo của một người tu hành dĩ nhiên không thể chia xẻ bằng ngôn ngữ
thường cho chúng ta được, nhưng bài thơ Đạt Đạo của Huyền Không quả là một bài
thơ đẹp, vừa về ý và lời, đẹp ở cả khả năng đưa ta lên cao một bậc khỏi những
dây nhợ vướng víu của đời thường.
Kim Cang kinh tụng chân thành từng trang
Khói hương quyện cảnh mơ màng
Không gian là chiếc y vàng quấn thân
Tuy là bốn
câu tả cảnh tu tập chăm chỉ thường nhật ở chùa nhưng đã có sự chuẩn bị cho một
vượt thoát: mảnh trời xanh trong hoàn cảnh này đã là một cái gì là lạ, khói
hương thường lệ đã được chủ thể thấy giữa mình và không gian bao quanh không
còn ranh giới, không gian rộng lớn có thể thu hẹp lại quấn quanh ta vừa bằng
cái áo của ta, hoặc là chính ta trở thành rộng lớn mênh mông trong không gian
để mặc vừa cái áo rộng lớn ấy . Tâm thức đã đạt trạng thái chuẩn bị …
Kim Cang kinh khép trầm luân thoát rồi
Ta từ sanh tử về chơi
Ngồi trên chóp đỉnh mỉm cười với trăng
Điều ấy
đã xảy ra. Cuộc “về chơi” đã tới đích. Không biết tự bao nhiêu kiếp đi lạc vào
cõi sinh tử, không biết đã bao nhiêu lần “người đi trong không gian nhịp xe uốn
vòng tử sinh” (*), bây giờ ta đã tìm thấy quê cũ yên vui rũ sạch lầm than.
Người đã thầy lại bản tâm. Trạng thái sau cùng là sẽ không còn chùa, không còn
kinh, bặt ngôn ngữ, tất cả chỉ là một sự bừng sáng tuyệt đối của một ngày mới
vừa rạng xóa tan cơn mê đời đời kiếp kiếp của quá khứ:
Thiền môn biến mất còn mình vô ngôn
Bình minh về ngập hoàng hôn
Cười lên một tiếng tỉnh hồn ngàn năm.
Sau khi
đọc câu “Cười lên một tiếng tỉnh hồn ngàn năm” tôi cũng thấy “đạt”
rồi, không còn muốn viết thêm về các bài khác nữa, mặc dù còn nhiều bài
tôi rất thích. Hình như đã đến chổ trọn vẹn. Qua mười sáu câu thơ của Đạt Đạo,
thi sĩ thiền sư đã dẫn dắt và truyền cho tôi phần nào cái cảm giác “tỉnh hồn” –
đó có lẽ là điểm cao nhất mà một bài thơ tạo được nơi nguời đọc nó. Và thế là
đủ, tôi xin khép lại nơi đây cảm nghỉ này.
Trên đây
tôi không dám viết về tác giả Huyền Không, đúng ra tôi chỉ viết về tôi khi đọc
tác giả ấy, mà đọc cũng không trọn vẹn. Như thế lại hơn: đừng nên mang tham
vọng làm những việc lớn lao quá sức mình.
Sàigòn,
Mùa Phật Đản Nhâm Thìn
No comments:
Post a Comment