Hoàng Định Nam
Lạc Lõng Giữa Quê Nhà
Hà Khánh Quân
“... ta về như lá rơi về cội
bếp lửa nhân quần ấm tối nay
chút rượu hồng đây, xin rưới xuống
giải oan cho cuộc biển dâu này...”
Người sâu sắc như Du Tử Lê thì “Đi và về cũng một nghĩa như nhau”. Hoàng Định Nam, theo tôi, cũng là một nhà thơ có nhiều bài kể những chuyến trở về rất thú vị.
Rất có thể có một số bạn đọc chưa có dịp đến với thơ Hoàng Định Nam. Tôi xin được giới thiệu.
Nhà thơ Hoàng Định Nam, một đứa con của quận Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam. Anh đã vô cùng hạnh phúc khi có được một tuổi thơ thật tuyệt vời. Với hơn mười năm sống với những tiếng chim, hít thở cùng những mùi hương, và lớn theo tình thương nội ngoại. Anh đã cất giữ được rất nhiều chất liệu cần thiết, để xây dựng những bài thơ nồng nàn tình yêu quê hương. Gia tài kỷ niệm trong anh được nuôi xanh bằng tình cảm, anh dành cho bà con thân thuộc, vườn ruộng, đồi bãi. Đáng buồn, những kỷ niệm ấy đã không giàu thêm được, bởi chiến tranh mở ra những chia lià. Rất may, thiếu hụt này đã được bù đắp bởi những nhớ thương, vun tình cảm cao dần.
Cuộc ra đi đầu đời ở tuổi mười một trong nước mắt. Chính là những thôi thúc đầu tiên đẩy đưa Hoàng Định Nam đến với thi ca. Chất liệu thơ anh ủ cất từ lâu, đã tự nhiên nở bung ra, trong những lúc anh trải lòng mình. Hơi thở từng con đường, từng nóc nhà, từng cây cau, nhánh mít như thường trực có mặt trong dòng thơ chân chất giản dị.
Vốn sống và kỷ niệm là nguồn mạch làm hồng hào những bài thơ của Hoàng Định Nam. Tôi mến mộ thơ anh, khi được đọc những bài thơ nồng nàm tâm sự, đầy ắp những trăn trở suy nghĩ về cuộc nhân sinh. Thú thật tôi đã có trọn một ngày vui, một ngày lâng lâng bay bổng, sau khi đọc được bài Câu Lâu Ngày Về đăng trên một đặc san Quảng Nam. Không nhớ rõ người nào gởi cho, Thái Tú Hạp ? Thuận Xuyên hay Xuân Đỗ ?
Cầu Câu Lâu, chiếc cầu lớn nhất miền Trung. Chiếc cầu cho tôi nhiều kỷ niệm. Xin được phép kể lể: Thuở ấu thời, tôi được gia đình mang tản cư đến vùng Đông Bàn. Tại đây, với khoảng cách khá xa, tôi chỉ đủ thấy thấp thoáng và nghe rền vang tiếng nổ. Một trong hai phe đối nghịch thời bấy giờ (Pháp và Việt Minh) phá hủy chiếc cầu. Thời khắc đó rơi vào buổi xế trưa. Nắng gió thật bình an. Có cả tiếng gà gáy vô tư. Trí nhớ của một cậu bé, có thể không đủ chính xác. Nhưng mỗi lần nghĩ, nhớ về Câu Lâu, kỷ niệm này vẫn đến với tôi, như một hình ảnh có hơi thở.
Nhiều năm sau, những chiếc đò ngang đã thay thân cầu, giúp tôi qua lại ít nhất mươi lần, trên dòng sông mênh mông. Rồi nhiều năm nữa, một người anh họ tôi, anh Lê Đình Tiếng, là chủ thầu xây dựng lại chiếc cầu này. Cầu sắp khánh thành, lại bị phá. Ông anh họ tôi tiêu đi một ít công sức lẫn tiền bạc. Chiến tranh mang tính chất hủy diệt. Đây là điều gần như đương nhiên. Cuối cùng chiếc cầu cũng đã bắt qua sông, nối liền mạch lộ đường số 1 của quốc gia.
Cái bắt tay giữa hai huyện Điện Bàn và Duy Xuyên, quê quán của Hoàng Định Nam, chính là chiếc cầu Câu Lâu này. Trong một lần về thăm, nhà thơ đã viết:
Lần trước tôi về, nước quặn Câu Lâu
tôi đứng bên ni, bên tê Gò Nổi
lòng tôi ngập tràn bóng ngày xuống vội
tôi đứng trên cầu hiu hắt ngó sang.
lòng tôi ngập tràn bóng ngày xuống vội
tôi đứng trên cầu hiu hắt ngó sang.
Ngay câu đầu, đã giúp tôi nhớ ra sự chênh vênh của mặt nước sông. Dòng chảy không bằng phẳng và có khá nhiều chỗ xoáy. Những cái rốn nước sinh động này vốn rất nguy hiểm. Tác giả đã dùng động từ “quặn” thật tài tình; vừa diễn tả xác thực phong cách của dòng nước; vừa nói lên nỗi lòng dân địa phương. Sẽ không thấy ra những cơ cực, cay đắng của những người sống bên dòng sông, nếu không dùng từ “quặn”. Từ “quặn” còn bộc lộ nỗi xót xa trong lòng tác giả khi nhìn ngắm lại cảnh cũ.
Thời điểm để một người bình tâm, ngắm lại quê nhà mình cũng rất thích hợp. Đó là buổi cuối chiều. Trong cái mênh mông của sông nước, trong cái tịch mịch ngút ngàn xanh của cảnh sắc, bóng tối càng lúc càng nhanh chân đến trong lòng người trở về. Niềm cô quạnh, bùi ngùi được nhân lên vội vã, qua ánh nhìn hắt hiu, tìm từng nỗi nhớ. Sự hồi tưởng về một quãng đời đã qua, từ từ đến trong tâm khảm một người, đang bát ngát nhớ thương. Kỷ niệm đến cùng lúc với liên tưởng, so sánh, nuối tiếc:
tôi, xưa hồn nhỏ mà sông mênh mang
chiếc cầu sắt đen ngày đi chưa có
đưa tôi qua sông con đò năm nọ
nay trôi về đâu lòng ngẩn ngơ sầu.
ngày xưa tôi đi cánh chim khát gió
trời dẫu bao la vẫn thấy rất gần
ngày tôi quay về gãy cánh, chồn chân
hồn tôi chênh vênh, đất trời chật hẹp.
đưa tôi qua sông con đò năm nọ
nay trôi về đâu lòng ngẩn ngơ sầu.
ngày xưa tôi đi cánh chim khát gió
trời dẫu bao la vẫn thấy rất gần
ngày tôi quay về gãy cánh, chồn chân
hồn tôi chênh vênh, đất trời chật hẹp.
Với tuổi thơ, dòng sông quả là một vũ trụ mênh mông. Tác giả thời bấy giờ, thật sự chưa đo lường được tâm hồn mình. Sự so sánh ở đây vừa chân thật, vừa nói lên tính khiêm nhường. Kịp đến tuổi phơi phới thanh xuân, tuổi ước mơ và thực hiện những chuyến khởi hành, chí khí bỗng vươn cao. Cái bao la của đất trời trở nên gần gũi so với những hoài bảo, những mục đích muốn đạt tới. Để cuối cùng, sự thất thế, thất bại bất ngờ, đã biến con người yêu đời, bỗng trở thành chênh vênh. Chẳng phải đất trời chật hẹp, mà cõi sống tù túng. Và bi đát hơn, người bại trận trở về, cảm thấy lạc lõng ngay trên nền đất, từng chôn nhau cắt rốn của mình. Bao nhiêu hình ảnh thân thương được gợi nhớ, để níu kéo, để làm một cái phao bám víu.
tôi tìm vô vọng sợi khói lam xanh
không cả tiếng gà cục tác mái tranh
nào đâu mùi thơm nồi cơm chín tới.
không cả tiếng gà cục tác mái tranh
nào đâu mùi thơm nồi cơm chín tới.
Bạn đã thấy chưa những sợi khói ở nông thôn? Những sợi khói vươn lên từ những bếp lửa nơi nhà-quê nghèo nàn. Những sợi khói mà nhà thơ Lâm Hảo Dũng đã trìu mến dùng làm tên một thi tập “Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà”
(...em khóc dòng sông ta khóc ta
ngày đi thương sợi khói bên nhà
ngày đi như thể không về nữa
nghe gió rừng xa vọng tiếng ca).
Những sợi khói mà Luân Hoán có được
“Khói Cơm Chiều”
(...khói bát ngát, hãy chiều lòng gió đợi
triệu hạt sầu tôi đã chín như cơm
ngày hết nắng tôi bao giờ hết đợi
những người về trong một cõi cô đơn?).
Bạn nhớ ra chưa những tiếng gà cục tác?
(con gà cục tác lá chanh
con heo ủn ỉn mua hành cho tôi – ca dao).
Những tiếng gà reo vui, trước khi rời ổ còn ấm cái trứng vừa đẻ ra. Rồi những mái nhà tranh lẻ loi, những nồi cơm vừa chín tới thơm phức. Hình ảnh, hình ảnh dựa nhau gợi mở biết bao nhiêu kỷ niệm. Nhưng thực tế đang là một sức mạnh chế ngự niềm hy vọng một cách phũ phàng:
vườn nhà người chiếm, ngọai bỏ tản cư
giải-phóng về đây một trời tao loạn
cuộc chiến năm nào đã vào dĩ vãng
sao nỗi buồn đau vẫn cứ quanh đây
cuộc chiến năm nào đã vào dĩ vãng
sao nỗi buồn đau vẫn cứ quanh đây
tôi đứng trên cầu ráng đỏ chân mây
bên kia sông vùng tuổi thơ mất dấu
tìm hoài đâu ra Đông Bàn, Cẫm Lậu
Thi Nhơn, Phú Lộc cũng đã thay tên .
Nỗi chán chường, niềm bi hận khó có thể nguôi khuây, nếu không vịn vào những ta thán, những tự trách:
tôi đứng nơi đây hồn xuống, chiều lên
khóc cuộc đời mình như thuyền đã đắm
chưa về làng xưa vinh qui áo gấm
nay khoe làm gì chiếc áo tù nhân .
chưa về làng xưa vinh qui áo gấm
nay khoe làm gì chiếc áo tù nhân .
Thật không gì chua xót hơn giữa hai hình ảnh được đưa ra so sánh. Áo gấm, áo tù. Tuy nhiên, nét hào kiệt, sự kiêu hãnh, vẫn tồn tại vững vàng, trong tâm hồn người đã phục vụ cho chính nghĩa. Tất cả những tinh hoa ấy đã bật ra những nụ thơ, có đủ châm biếm chua cay, có đủ cái cốt cách đáng tự hào. Cuối cùng chí hướng ngang dọc đã vẽ ra con đường sẽ đi một cách dứt khoát:
thời thế đổi thay, người cũng chia, phân
tôi đi giữ nước trở thành bán nước
người sợ vạ thân hoan hô xâm lược
tôi tội đồ được ra vẻ khoan dung.
Câu Lâu, chỗ Thu Bồn tan rồi hợp
để cùng xuôi về biển mẹ mênh mông
nhưng nơi đây tôi nghe rẽ đôi dòng
con đất QUẢNG vẫn đi về hai phía
tôi đứng trên cầu nhìn qua làng cũ
tôi chẳng sang sông để khỏi chạnh lòng
người sợ vạ thân hoan hô xâm lược
tôi tội đồ được ra vẻ khoan dung.
Câu Lâu, chỗ Thu Bồn tan rồi hợp
để cùng xuôi về biển mẹ mênh mông
nhưng nơi đây tôi nghe rẽ đôi dòng
con đất QUẢNG vẫn đi về hai phía
tôi đứng trên cầu nhìn qua làng cũ
tôi chẳng sang sông để khỏi chạnh lòng
Câu Lâu Ngày Về là một đoản ca bi hùng của người lính Việt Nam Cộng Hòa. Mỗi chiến sĩ là một Từ Hải của Tiên Điền Nguyễn Du. Tôi ba hoa nhưng không quá lời. Một điều nên ghi nhận, sự trở về thăm quê hương lần này của tác giả, không phải là sự trở lại từ ngàn dặm xa cách, nơi nước người. Mà sự trở về từ một trại tù binh, không đánh mà buộc phải bại. (Hoàng Định Nam vốn là một sĩ quan trừ bị, tốt nghiệp khóas 9C/ 72 Bộ Binh Thủ Đức). Sự trở về từ quê hương đến địa danh quê nội. Đất liền đất mà chợt ngàn trùng cách xa.
Cuộc đổi đời thầm lặng đi qua. Bước chân mau chậm, tùy theo cảm nhận của mỗi hoàn cảnh. Việc đến sẽ đến, và Hoàng Định Nam đã có nhiều ngày về thăm quê hương, từ một phương trời thật sự chia cách. Anh lại gởi tặng quê nhà những câu thơ vẫn nặng một tâm tư u uất ngậm ngùi:
“... Thời trai trẻ chẳng còn bao dấu vết
Bởi thời gian một cơn bão lặng thầm
Có phải ta không còn mơ hương phấn cũ
Hay người cũng từng quên chuyện trăm năm
Mai có về soi bóng Thu giang
Tắm bến sông An Trường, Hà Mật
Nước có rửa sạch đôi chân cát đất
Thì lòng ta cũng đã bụi giang hồ
Mai có về tìm lại tuổi ấu thơ
Cánh diều nhỏ cũng đã băng vào thần thoại
Những người thân một thời tản cư không trở lại
Ngoại mất rồi, Nội yên nghỉ đất Chiêm Sơn
Ta lạc lõng giữa thị thành Đà Nẵng
Ta bơ vơ trong phố cổ Hội An
Đường Nam Phước có phẳng phiu hơn trước
Nhưng lòng người gập ghềnh từ chinh chiến ly tan
Không còn ai, nơi trở về đã mất
Không còn ngôi vườn, chim mất chỗ ẩn cư
Cội mai trước sân vẫn rực vàng trong ký ức
Dầu muốn không, mây vẫn phải phiêu du.
Dallas, chừng là nơi trở lại”.
Nước có rửa sạch đôi chân cát đất / thì lòng ta cũng đã bụi giang hồ. Hai câu thơ thật tuyệt, vẽ ra thật rõ sự lênh đênh của thân phận. Và : Không còn ai, nơi trở về đã mất. Không còn ngôi vườn, chim mất chỗ ẩn cư. Niềm chua chát có thật này, không chỉ một mình Hoàng Định Nam nhận thấy. Năm 1992 tôi gặp một người quen. Anh là một nhạc sĩ lừng danh từ Việt sang Montréal thăm gia đình. Điều anh thú vị gặp được, không phải là nét tân tiến của một thành phố lớn Bắc Mỹ. Anh hạnh phúc, tươi vui vì những đàn chim, nhiều loại, nhởn nhơ bình an trong thành phố. Khi chạm trán với một con quạ, anh thẩn thờ nói thầm “thì ra mày sang đây”. Năm chữ giản dị bỗng thành một câu thơ. Tôi chắc rằng, anh sẽ dùng âm nhạc để trang trải những tiếc thương, hoài cảm.
“Kinh-tế-thị-trường-định-hướng-xã-hội-chủ-nghĩa”, cụm từ nói đến chính sách làm ăn, mua bán hiện nay tại Việt Nam. “Định hướng xã hội chủ nghĩa”, suy cho cùng chỉ là một lối dùng chữ, để giữ thể diện, tránh né việc phải áp dụng, đi theo nền kinh tế tư bản. Dù sao cũng phải nhìn nhận, từ khi chính sách này được thực thi, đất nước Việt Nam tiến khá nhanh trong việc xây dựng, chỉnh trang thành phố. Nhiều đô thị phát triển khá nhanh chóng. Nhiều người có nhận định mỉa mai, nhưng không phải không chính xác: “không cho xây dựng, không có cơ hội hối lộ, tham nhũng”. Ở đây, tôi không dám bước quá xa đề, lạc vào lãnh vực chính trị. Tôi chỉ muốn nói sự lạc lõng của Hoàng Định Nam giữa Đà Nẵng, giữa Hội An, là điều có thật ở cả hai mặt thực tế và tình cảm. Nỗi lạc lõng, bơ vơ của tác giả cũng không là một ý mới, lạ trong thơ. Nhiều người đã bày tỏ cảm nhận chân thật này. Cái xuất sắc của bài thơ, bất ngờ nằm ở trong câu cuối. “Dallas, chừng là nơi trở lại”.
Đứng ngay trên mảnh quê hương thân yêu của mình. Một quê hương mình đã từng đổ mồ hôi, đổ máu để gìn giữ, phải chua chát xác nhận: Nơi trở về cho tháng ngày còn lại của mình, của gia đình mình, lại là một vùng đất, một thành phố, nằm xa ngoài vạn dặm. Nơi không phát sinh ra nguồn ca dao. Nơi không sản sinh ra những Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Báo Quát, Trần Kế Xương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Khuyến, Nhất Linh, Khái Hưng, Nam Cao, Phan Khôi, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Nguyên Sa, Bùi Bích Liên, Tạ Tỵ, Nghiêu Đề... Nỗi xót xa đó, oái oăm thay lại là một sự thật. Một sự thật không chỉ dành riêng cho nhà thơ, mà còn dành chung cho mỗi một người tỵ nạn.
Chọn thơ Hoàng Định Nam để tản mạn, thú thật, khởi đầu tôi dự định, chỉ lang thang theo bài Câu Lâu Ngày Về. Nhưng đọc tiếp những bài khác của anh, tôi thấy thật thú vị. Thế là bắt chước anh lơ xe ngày nào, nhưng thay vì hét lớn, tôi nói thầm với ngón tay gõ chữ: “tới luôn bác tài !”
Hoàng Định Nam có đến sáu năm trong Đại Học Máu (Hà Thúc Sinh) của Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng những buồn vui, khổ nhục từ Đáy Địa Ngục (Tạ Tỵ) ấy, không lưu lại nhiều trong thơ anh. Năm 1977, khi bị cải tạo ở Suối Máu, anh có những vần lục bát, rất từ tâm, không oán trách:
Còn em giấc ngủ xanh gầy
Còn ta thù hận trải đầy chiêm bao
Xăm xoi ngày tháng mòn hao
Vì em ta gát mộng vào thiên thu
Ta về đốt ngọn lửa hư
Mở trang sách cổ học như Di, Tề
Đời bay trên ngọn lửa mê
Mưa qua trút lá, sông về biển Đông
Nước khe trong, dịu bớt lòng
Trả đời lại với những phong ba này
Xăm xoi ngày tháng mòn hao
Vì em ta gát mộng vào thiên thu
Ta về đốt ngọn lửa hư
Mở trang sách cổ học như Di, Tề
Đời bay trên ngọn lửa mê
Mưa qua trút lá, sông về biển Đông
Nước khe trong, dịu bớt lòng
Trả đời lại với những phong ba này
Viết về Tình lứa đôi, thơ Hoàng Định Nam nhẹ nhàng, nhưng có phần thiếu say đắm, bởi quá giàu suy tư. Mời đọc:
Lòng tôi, một thời, là rừng hoang.
Em, con thú nhỏ, dạo lối mòn.
Vết chân để lại trên bờ suối.
Nước trôi hoài chưa xóa hết dấu son.
Lòng tôi, một thời, là phố thị.
Phố đông người, phố vẫn nhận ra em.
Em đi qua một lần, rồi xa khuất.
Chút bụi hồng lưu lại vẫn có tên.
Lòng tôi, một thời, là sông vắng.
Em, cánh buồm, thiếu gió xuôi trường giang.
Sông hoang lạnh cả đôi bờ lau sậy.
Thuyền trôi rồi, gợn sóng mãi chưa tan.
Lòng tôi, một thời, là sa mạc.
Em cơn mưa qua đấy một lần.
Mưa tan nhanh trả lại trời nắng cháỵ
Sao cát vàng giữ mãi giọt nước xanh.
Lòng tôi, một thời, là bão tố
Em, cành mềm, lả ngọn, bình yên.
Trường lớp ấy, em đi về mấy buổi
Có buổi nào em học chuyện nhân duyên?
Lòng tôi, bây giờ, là cổ viện
Bảo tàng những di vật xa xưa .
Em có đến, mời em, người du khách.
"...Vâng! ngày tàn, nên hoang vắng, xin thưa "
(Tôi, Cổ Viện)
Vết chân để lại trên bờ suối.
Nước trôi hoài chưa xóa hết dấu son.
Lòng tôi, một thời, là phố thị.
Phố đông người, phố vẫn nhận ra em.
Em đi qua một lần, rồi xa khuất.
Chút bụi hồng lưu lại vẫn có tên.
Lòng tôi, một thời, là sông vắng.
Em, cánh buồm, thiếu gió xuôi trường giang.
Sông hoang lạnh cả đôi bờ lau sậy.
Thuyền trôi rồi, gợn sóng mãi chưa tan.
Lòng tôi, một thời, là sa mạc.
Em cơn mưa qua đấy một lần.
Mưa tan nhanh trả lại trời nắng cháỵ
Sao cát vàng giữ mãi giọt nước xanh.
Lòng tôi, một thời, là bão tố
Em, cành mềm, lả ngọn, bình yên.
Trường lớp ấy, em đi về mấy buổi
Có buổi nào em học chuyện nhân duyên?
Lòng tôi, bây giờ, là cổ viện
Bảo tàng những di vật xa xưa .
Em có đến, mời em, người du khách.
"...Vâng! ngày tàn, nên hoang vắng, xin thưa "
(Tôi, Cổ Viện)
Mình về núi ở yêu nhau
Anh đem thơ đốt lửa màu ảo hư
Để em vén tuổi sương mù
Hong bờ tóc lạnh đã từ xa xôi
Mình về ở đỉnh mây trôi
Xuống khe lấy nước, lên đồi hứng trăng
Trồng rau, cuốc rẩy, bẻ măng
Chất cao đống củi chờ lần đông sang
Rồi thu ta nhặt lá vàng
Chép câu thơ cổ hỏi ngàn năm xưa
Rằng xưa ai đã ngồi chưa
Mà nay có kẻ lại vừa tọa lên (*)
(*) Ngã kim nhật tại tọa chi địa
Cổ nhân tằng tiên ngã tọa chi
(Màu Hư Ảo)
Nhà thơ Thái Tú Hạp trong nhiệm vụ giới thiệu tổng quát tuyển tập thơ của năm tác giả: Hoàng Định Nam, Mạc Phương Đình, Quang Huỳnh, Vô Tình, Vũ Đình Trường, đã nhận định thơ Hoàng Định Nam:
“Cõi thơ của anh man mác nỗi buồn ray rức nhớ thương. Điêu tàn như ánh nắng chiều hiu hắt trên Cổ Viện. Ngôn ngữ thi ca đích thực vực dậy từ tiềm thức những hoang vu trầm thống trong sa mạc cô đơn nơi phương trời viễn mộng. Tiếng nói đã chìm trong gió bão. Sự im lặng kinh hoàng của bến bờ vô vọng. Người lữ khách lạc loài nơi xứ lạ, không biết đi đâu về đâu”.
(Thái Tú Hạp)
Thân phận con người, như là một nỗi ám ảnh của hầu hết các nhà thơ, có duyên nợ với thời cuộc, chinh chiến. Chủ đề này, theo tôi, Hoàng Định Nam khéo tay nhất. Bạn đọc có thể suy nghiệm qua trích dẫn sau:
ta ở đây cũng gần mười năm
phố không thân cũng chẳng lạnh lòng
cũng vẫn là ta thằng vô tích sự
mượn xứ người làm chỗ an thân
mầy cũng đi như thằng trốn chạy
mười năm đành chối bỏ quê hương
muốn về nhưng nhớ lòng người nhạt
một thuở cơ hàn, thuở gió sương
một thuở rượu đong từng nửa xị
ốc sò chẳng đủ tiễn hơi cay
thuốc kêu từng điếu, môi cháy đỏ
ướt chỗ ta ngồi, mưa lất lay
bạn bè bên kia vòng trái đất
than thân rượu quí chẳng ai say
Whisky, Cognac sầu còn dựng
huống chi rượu đế tao với mầy
một thuở áo cơm lòng đắng chát
cái thời mạt lộ thua con cầy
thằng ở ngán ngao bằng với hữu
thằng đi thấy khổ chẳng thua ai
nhờ trời rồi cũng qua đại hạn
cũng còn nước đục cho trâu già
còn hơn chết giữa trời sa mạc
hồn cũng thiêu cùng với thịt da
mười năm ngó lại như huyễn mộng
kể ra đời tạm lắng phong ba
nhưng còn món nợ làm sao trả
nợ với quê hương, nợ tình nhà
cũng vẫn là ta thằng vô tích sự
mượn xứ người làm chỗ an thân
mầy cũng đi như thằng trốn chạy
mười năm đành chối bỏ quê hương
muốn về nhưng nhớ lòng người nhạt
một thuở cơ hàn, thuở gió sương
một thuở rượu đong từng nửa xị
ốc sò chẳng đủ tiễn hơi cay
thuốc kêu từng điếu, môi cháy đỏ
ướt chỗ ta ngồi, mưa lất lay
bạn bè bên kia vòng trái đất
than thân rượu quí chẳng ai say
Whisky, Cognac sầu còn dựng
huống chi rượu đế tao với mầy
một thuở áo cơm lòng đắng chát
cái thời mạt lộ thua con cầy
thằng ở ngán ngao bằng với hữu
thằng đi thấy khổ chẳng thua ai
nhờ trời rồi cũng qua đại hạn
cũng còn nước đục cho trâu già
còn hơn chết giữa trời sa mạc
hồn cũng thiêu cùng với thịt da
mười năm ngó lại như huyễn mộng
kể ra đời tạm lắng phong ba
nhưng còn món nợ làm sao trả
nợ với quê hương, nợ tình nhà
(Cũng Gần Mười Năm)
Giữa ta với người, giữa bạn cùng ta, nhiều khi chỉ là một. Nỗi đau không chia đều, mà nhốt chung những người cùng một thời kỳ lận đận của kiếp nhân sinh. Ngoài nội dung phong phú, chủ đề này cũng chiếm số lượng cao trong số thơ Hoàng Định Nam đã phổ biến. Qua đó, chúng ta thấy tấm lòng nhân hậu của anh dành cho cuộc đời:
“... có khi loanh quanh giữa tường cao, vách xám
giữa cuộc đời hữu thủy, vô chung
một chút nghĩa tình cứ chực chờ trôi tuột
dù với ai, ta cũng trải hết lòng...”
(Ta và Gió)
Riêng với thân phận mình, tác giả có phần bi quan, buông xuôi:
“... Lão thiền sư sợ tâm mình là quỉ dữ
Ông trụ thiền môn theo Phật tìm đường
tao trốn vào men, tìm phương giải thoát
sau một ngày áo cơm bỏng rát
ta ra đường nhập định Tửu môn
lão thiền sư muốn nhìn kỹ mình hơn
tao muốn lãng quên trong dăm ba tiếng
Ông như con tàu lặn sâu vào biển
tao ngợp, trồi lên trên ngọn sóng cời
đời xếp dưới chân. Rượu bốc thành hơi
gian khó, nhục nhằn, khen chê cũng lắng vào đáy cốc
tất cả lắng vào đáy cốc”
(16 Năm Đạt Ma)
Còn khá nhiều đoạn thơ viết rất tới, trong dòng suy tư thân phận của Hoàng Định Nam. Nhưng tôi xin tạm ngưng, để giới thiệu dòng thơ tình cảm gia đình của anh. Bài thơ
tôi muốn mời các bạn đọc, Hoàng Đình Nam dành tặng cho cô con gái, thật mượt mà.
Có phải con là linh hồn cha thất lạc
Mượn sắc Hoa làm hương sắc cõi trần
Cha hoang lạnh giữa trùng trùng mộ địa
Nay con về đốt ấm lại tiền thân
Có phải con là giọt máu cha nhỏ xuống
Đã mất tăm trong bóng tối ta bà
Bỗng yên lặng một đêm trừ tịch
Đất âm thầm vươn trổ đóa Quỳnh Hoa
Có phải con là mùa xuân phía trước
Là gió hay chim mang tin báo đổi mùa
Con có cả cuộc đời cha chưa sống hết
Nên đau hoài bên gối Mộng năm xưa
Cha mất cả không còn gì nữa
Đường ra đi thăm thẳm lối quay về
Có phải con Cội Hoa Vàng trước ngõ
Rộ cuối đời cha một góc trời quê
Có phải con là thiên đường cha mất dấu
Nên cha trôi hoài trong địa ngục u minh
Cha vuột cả một thời niên thiếu
Còn lại con là hơi thở chính mình
Cha vẫn đợi như chưa từng gặp gỡ
Linh hồn cha trong thân xác của con
Nếu không thể làm thân Tùng trên đỉnh núi
Là Quỳnh Hoa - con - lồng lộng hương thơm.
Ôi hoa Quỳnh
Chỉ một lần rực nở
Trắng trong và ngát cả đêm thanh
(Linh Hồn Của Cha, tặng con gái Huỳnh Hoa)
Bài thơ có nhiều ý mới, được diễn tả qua nhiều câu rất đẹp:
“Cha vuột cả một thời niên thiếu
Còn lại con là hơi thở chính mình
Cha vẫn đợi như chưa từng gặp gỡ
Linh hồn cha trong thân xác của con”
Không rõ Huỳnh Hoa hiện đang ở lứa tuổi nào. Rất có thể hôm nay cháu đã thành danh. Nhưng dù là một cô bác sĩ, một cô luật sư hay một ngành nghề nào khác, tôi vẫn tin chắc chắn một điều, em sẽ đọc và sẽ thương người cha của mình nhiều hơn.
Kết luận chủ quan của tôi sau đây, hy vọng cũng là đánh giá chung của nhiều người, khi đến với thơ Hoàng Định Nam:
Mặc dù chưa trước bạ với làng văn thơ, bằng một thi phẩm in ấn, phát hành riêng, Hoàng Định Nam đã thành danh một nhà thơ nghiêm chỉnh. Chúng ta chờ đọc anh những sáng tác mới.
Hà Khánh Quân
26-4-2010
No comments:
Post a Comment