Phạm Phú Hải: “vô ngã” là
“cõi thơ”
Một lần, khoảng cuối năm 1973, Phạm Phú Hải bất chợt hỏi tôi: “Nếu
muốn tự tử, ông có dám tìm đến một cái gềnh vắng rồi nhảy xuống không?!”. Câu
hỏi đó, đến nay, thỉnh thoảng vẫn hiện về trong trí tôi với nhiều tưởng
tượng...
Đọc thơ Phạm Phú
Hải (1950 - 2009) chúng ta dễ dàng nhận ra những trăn trở nội tâm khốc liệt, đó
là nỗi trăn trở của một chân nhân, kẻ thao thức về “sinh tử đại sự”, bộc lộ
trong hầu hết sáng tác của anh khi mới chớm ngoài tuổi đôi mươi:
“Khi những khách
du xưa đều mất dạng
Những hài xưa góp nhặt xếp quanh đây
Để chiều chiều mở hai mắt thơ ngây
Nhìn sương khói
mà tưởng mình sương khói
Một âm thanh nhập về hai tiếng nói
Biển sóng reo
bập bẹ tử và sinh
Trăm con sông
máu mãi mãi vô tình
Nguồn thả xuống
một dòng xanh lảo đảo
Giữa trùng khơi ta vẫn ngồi cấm khẩu
Lửa tà huy đốt
cháy ngọn tà huy
Ta đứng lên rồi
thổ não vô tri
Một phiến máu
một phiến gì giữa biển.”
('Khóc giữa thai', GNTS)(1)
Hoặc những biến
tấu quanh chủ đề này, bàng bạc trong thơ anh:
“xương nằm máy động bên xương
hỏi thầm nhau một cõi thường ở đâu.”
(“Xương thơm”, Một hôm núi khóc);
“trăng đi vùn vụt trên đầu
cỏ non mọc vội ở sau lưng mình.”
(“Không đề II”, Gánh nước tưới sông);
“tro tàn chẳng gởi về đâu
luồn qua khe cửa bóng câu âm thầm
đồi cao khói điếc sương câm
mây mù là bạn tri âm buổi nào.”
(“Buổi nào”, Một hôm núi khóc).
Mang nặng nỗi ám ảnh nhân sinh phù du đó, Phạm Phú Hải luôn cảm
thấy cô đơn hốt hoảng rồi trăn trở kiếm tìm một lối thoát trong đạo-triết...
Từ một cõi vô thức
xa xăm nào đó của thi sĩ đã vọng về:
“có bàn chân dài hơn con đường
nên chân trời là những đốt xương
của ai bỏ lại ngàn năm trước
sửng sốt kêu lên tiếng dị thường.”
(“Thi sĩ”, Một hôm núi khóc) Cái “tiếng dị thường” đó, là tiếng
hòn sỏi rơi xuống vực thẳm, mà thi sĩ đã nghe được bằng trực thức của chính
mình. Vì thế con đường không còn dài hay ngắn, cho nên không gian và thời gian
cũng không còn hiện hữu, có chăng chỉ hiện hữu một không gian ảo của “chân trời
và đốt xương”. Nếu cứ tiếp tục dấn bước trong chiều hướng suy tư đó, rồi, chúng
ta sẽ gặp ngay cái không khí của “con đường” hay của “đạo”, và cũng phải thốt
lên: “đạo khả đạo phi thường đạo.”!
Con đường của Phạm
Phú Hải, có lẽ, đã song thoại với con đường của Antonio Machado, thi sĩ Tây Ban
Nha vào đầu thế kỷ 20.
“Caminante, son
tus huellas
el camino y nada
mas;
Caminante, no hay
camino,
se hace camino al
andar.
...
Caminante, no hay
camino
sino estelas en la
mar.”
(Antonio Machado)
[Du tử, dấu chân
mi tạo ra con đường,
chứ chẳng có chi
khác.
Du tử, cũng chẳng
có con đường;
mi tạo ra con
đường bằng chính
bước chân mi.
...
Du tử, chẳng có
con đường nào
chỉ là vết nước rẽ
trên mặt
đại dương. TPK]
Phạm Phú Hải rất
quý Bùi Giáng nên thỉnh thoảng hay đi Sài Gòn để tìm thăm. Khi tôi gặp lại Bùi
Giáng ở chùa Già Lam khoảng năm 1985, biết tôi ở ngoài Trung mới vô, Bùi Giáng
hỏi về Phạm Phú Hải với một tình cảm rất đặc biệt và nói: “Tao tiếc là mấy
tháng trước Phạm Phú Hải tới thăm tao mà hồi đó tao điên quá nên mất vui...”
Tâm trạng của Bùi Giáng vào thời gian đó chông chênh giữa trầm cảm và hưng
phấn.
Trên một cung bậc
nào đó, hòa điệu với thi sĩ Bán Dùi/Bùi Giáng, Phạm Phú Hải như đùa như thật:
“trống tôi đã sẵn nhưng dùi thiếu/ lão bán mau tôi giáng ít dùi.” (“Mua dùi”,
Gánh nước tưới sông) Có lẽ tiếng trống của Bùi Giáng và của Phạm Phú Hải chung
điệu với tiếng trống của Thiên cổ lôi âm Phật vang ở phương đông hòa điệu vận
hành vũ trụ; và, với tiếng trống damaru của thánh Bhringi giữ nhịp cho thần
Siva trong điệu múa Tandawa giao hòa hoàn vũ và cân bằng sinh tử. Tương ứng với
cõi siêu hình kia, vẻ đẹp trần gian của tiếng trống thiêng trong hồn thơ của
những thi sĩ vẫn đồng vọng đâu đây:
“bờ tre rung động trống chầu
tưởng chừng còn vọng trên lầu ải quan.” (Huy Cận).
Nguyên âm “A” (अ) trong tiếng Phạn có nghĩa là “vô”, là
“bất”, là không có. Chúng ta gặp ở đây một Phạm Phú Hải thi sĩ - thiền sư, một
Phạm Phú Hải đã đạt đến “vô ngã” để nghe được diệu âm của “trùng phùng từng hột
đất xôn xao”, để bày tỏ sự ngạc nhiên, để thốt lên một âm “A” tròn trịa trong
cảnh giới “chân không diệu hữu”:
“lạnh mùa thu
lạnh trong núi đá
có con cá nhỏ
chết bên cầu
có con chim nhỏ
vì vui quá
cũng chết bên
cầu ấy; bữa xưa
...
chẳng đến đâu
chẳng từ đâu đến
con chim ngày cũ
hót inh rừng
bên cầu đứng
ngắm hai dòng nước
một chảy xuôi
dòng, một ngược nguồn
...
không ở đâu
không đâu chẳng ở
cá hồi dương lội
ngược chiêm bao
cầu gãy hai bờ
xưa tương ngộ
trùng phùng từng
hột đất xôn xao
mùa thu núi đá
lạnh vô cùng.”
(“A, AA, AAA,
AAAA, AAAAA”,
Một hôm núi khóc).
Cây cầu sương khói
ấy đã nối “lạnh mùa thu lạnh trong núi đá” của vô thức để đồng hiện với “mùa
thu núi đá lạnh vô cùng” của hữu thức, hòa quyện trong âm thanh “a, aa, aaa,
aaaa, aaaaa...” bất tận vang vọng trong “cõi thơ/cõi thiền” của Phạm Phú Hải
người đã bắt gặp “vô vị chân nhân”!
Cảnh giới vô ngã
đó của Phạm Phú Hải ẩn hiện bàng bạc trong thơ anh, hòa nhập với thiên nhiên để
“rơi” vào một thời - không nào đó:
“Mùa hoa trước,
mùa hoa năm trước nữa
Bên gốc cây chừ đã có ta ngồi
Lơ đãng vài cánh
hoa rơi nhẹ nhẹ
Ta thả rơi đời
mình, lơ đãng thôi
...
Trong lớp vỏ
cây, trong vệt phân chim,
Trong cánh hoa rơi, trong phiến mây bay,
Ta tìm thấy lại bóng mình: “Không ngớt”
Rơi đi. Rơi hoài. Rơi nữa. Rơi. Rơi...”
(“Tìm thấy lại”,
Một hôm núi khóc)
Hay từ sự ngạc
nhiên đầy thiền vị: “nửa khuya thức giấc hỏi mình tan chưa.” (Gánh nước tưới
sông); đến những rung động sâu xa từ cõi không:
“Vui là hát động
rừng chim
Nghêu ngao là
bước đi tìm bao la
Ai là ai giữa
lòng ta
Tóc bay nhớ
những chiều xa
những chiều xa những chiều.”
(“Lục bát Múa”, Một hôm núi khóc)
Phạm Phú Hải sinh
trưởng trong chiến tranh, nên những bi kịch trong cảnh khói lửa tang thương kia
cũng không thể rơi ngoài cảm xúc của anh, nhất là khi kẻ bỏ cuộc là những người
ruột thịt hay bạn bè trai trẻ của anh:
“giữa hai tợp
rượu nghe mùi khét
lớp lớp thây ai
vó chiến binh
...
hỡi tất cả hồn
ma già trẻ
ta rót lòng ta
rượu vạn ly
rót nữa, trộn
chung trời đất lại
lòng chữa vơi
đâu-hãy cạn ly.”
(“Tựu giữa men
bằng hữu”,
Gánh nước tưới
sông)
Và, bày tỏ thái độ
phủ nhận đau đớn của một thi sĩ trước chiến cuộc tàn khốc đó với một cảm giác
hoàn toàn tê liệt bất động:
“Tôi có nửa thân
đương hóa đá
Ngửa mặt chờ hậu
kiếp mỏi mê
Không phải chiều
trôi không phải bóng ngày
Không phải trời xanh không phải mây bay
Không phải tôi không phải không phải
Chiều nay ngửa mặt ngồi ngây ngây.”
(”Không phải không
phải”,
Một hôm núi khóc)
Xin kể lại cho các
bạn cùng nghe một câu chuyện Thiền mà thưở sinh thời Phạm Phú Hải rất thích để
có thể hiểu thêm quan niệm của anh về sinh tử:
“Khi ni sư Eshun
đã ngoại lục tuần và sắp từ giã cõi đời, bà nhờ mấy vị tăng chất một đống củi
lớn giữa sân chùa.
Sau khi an tọa
trên giàn củi, ni sư cho đốt lửa xung quanh.
Một vị tăng la
lên: “Sư bà ơi! Trên đó có nóng không sư bà?”
Ni sư Eshun bèn
trả lời: “Chỉ có kẻ ngốc như mi mới hỏi những câu ngớ ngẩn như thế!”
Ngọn lửa bốc lên
và lão ni viên tịch!”
(“Eshun's Departure”, 101 ZEN STORIES)
Tạm kết, xin dẫn
câu thơ của thi sĩ Trần Đới đã ưu ái riêng tặng cho Phạm Phú Hải và cho thơ của
anh: “hài nhi chưa tắm sông nào.”(2)
(2) Tập thơ “Tảo
mộ lênh đênh” của Trần Đới, xuất bản tại Sài Gòn năm 1973.
THƠ PHẠM PHÚ HẢI
Rừng rú mùa mùa
Vượn không hú, hú
dùm vượn vậy
Muôn sao kia im
đấy chờ ta
Hơi từ thăm thẳm
toát ra
Tay thanh âm phủ
rừng già nửa khuya
Không hú khúc chia
lìa vượn nhé
Để lá khô ứa lệ
sao đành
Ta đang nhìn thấy
màu xanh
Đang len lén gọi
những nhành quạnh hiu
Vượn hỡi vượn
những chiều lạnh ngắt
Có nghe lòng se
sắt biệt ly
Đàn đàn ve nhỏ ra
đi
Thanh âm ly biệt
thầm thì heo may
Mùa giao mùa lắt
lay nỗi nhớ
Trăng đầu đêm ngờ
ngợ lên cao
Vượn ngồi ngây
ngất bầu sao
Sương đêm đẫm ướt
lối vào tịch liêu
Con chim nhỏ ngủ
bìa rừng mật
Nửa đêm choàng
tỉnh giấc kêu lên
Tiếng buồn thảng
thốt trăng chìm
Tơ sương mớm động
vào đêm u tà
Phải chăng vượn
xương da bật hú
Ngửa mặt ra trăng
tụ lòng tay
Xoắn dài đáy đỉnh
ngất ngây
Hiu hiu đóm lửa
đêm dài hiu hiu
Ta cũng có những
chiều té úp
Hồn gượng đau đứng
suốt đêm dài
Mỏi mòn quỵ giữa
sao mai
Nghe đau tinh đẩu
thác thai tựu hồi
Biết vượn vẫn muôn
đời câm lặng
Biết vượn còn
nghèn nghẹn hơi xưa
Xác xơ mấy nhịp
gió đùa
Vẫn còn giãy giụa
mùa mùa quặn đau
Bựa bựa máu ôm đầu
vượn hú
Thấu tim gan mưa
lũ rừng về
Ta nghe uất đọng
não nề
Rùng rùng máu bạt
bốn bề căm căm
Thôi thì chớ lòng
tầm tã lạnh
Nói không ra ưu
phẫn mười mươi
Ẩn sau những tiếng
hú cười
Cơn đau rừng rú
không nguôi vết bầm.
1972
Tìm thấy lại
Kính tặng
Vàng-Tầm-Thường
Mùa hoa năm nay nở
hoa năm trước
Có ta một mình
tiếc nuối ngày qua
Bên gốc cây già
sần sùi vỏ rễ
Vẽ những đường
ngang đường dọc, vu vơ
Những vệt phân
chim nửa đen nửa trắng
Đã từ bao giờ
vương vãi đó đây
Vệt phân vô tình
nằm trong tia mắt
Cũng có ta vô tình
bên gốc cây
Mùa hoa trước, mùa
hoa năm trước nữa
Bên gốc cây chừ đã
có ta ngồi
Lơ đãng vài cánh
hoa rơi nhẹ nhẹ
Ta thả rơi đời
mình, lơ đãng thôi
Rơi mãi, Ta rơi từ
năm nọ
Chiều nay ngồi im
nhìn mây bay
Ta nghe gió, ta
nghe vài hoa rụng
Ta thèm cho đời ta
một gốc cây
Trong lớp vỏ cây,
trong vệt phân chim,
Trong cánh hoa
rơi, trong phiến mây bay,
Ta tìm thấy lại
bóng mình: “Không ngớt”
Rơi đi. Rơi hoài.
Rơi nữa. Rơi. Rơi...
20-21/8/72
A, AA, AAA, AAAA, AAAAA...
Lạnh mùa thu lạnh
trong núi đá
có con cá nhỏ chết
bên cầu
có con chim nhỏ vì
vui quá
cũng chết bên cầu
ấy; bữa xưa
có một thư sinh
lên núi đá
hỏi thăm đường tới
chốn Bất Lai
trăng khuya úp mở
sau ngàn lá
bướm đỏ đàn đàn
chấp chới ba
có một thư sinh
lên núi đá
hỏi thăm đường tới
chốn Bất Lai
trăng khuya úp mở
sau ngàn lá
bướm đỏ đàn đàn
chấp chới bay
có lão tiều phu
trong núi đá
mười năm say hương
quế, quên về
lều dựng gió đầy
rung mái gió
một bầu cổ nguyệt
chảy tràn khuya
trăng khuyết xuôi,
trăng tròn, trăng khuyết ngược
bứt tháng, hái ngày, ngắt khô năm
năm khô râu mới
đùn râu cũ
sợi sợi ấn ngời Vô
Lượng Quang
xuất định bốn bề
sương giọt giọt
con chim xưa sống
lại bên cầu
tiều lão mặt trời
vai tịch tịnh
mặt trời rơi xuống
giữa dòng sâu
chẳng đến đâu
chẳng từ đâu đến
con chim ngày cũ
hót inh rừng
bên cầu đứng ngắm
hai dòng nước
một chảy xuôi
dòng, một ngược nguồn
không ở đâu không
đâu chẳng ở
cá hồi dương lội
ngược chiêm bao
cầu gãy hai bờ xưa
tương ngộ
trùng phùng từng
hột đất xôn xao
mùa thu núi đá
lạnh vô cùng.
Đêm mù trăng
Có phải mùa đông
đến dưới kia
Anh nghe thời khắc
lạnh mơ hồ
Trên đồi anh đứng
nhìn anh đứng
Anh thấy một người
đang đứng co
Anh đứng co trên
mặt đồi cong
Anh nghe hơi thở
phải đi vòng
Đông tây nam bắc
nhăn nheo lại
Hơi thở anh mù bốn
phía giăng
Trước mặt một
vầng, trăng rất dày
Ô hay, sương khói
tụ về đây
Khói rất đỏ và
sương rất đỏ
Phong kín cả vầng
trăng ngủ say
Lững thững anh đi
xuống khỏi đồi
Kìa vầng trăng
lạnh đã rời ngôi
Và anh anh cũng
rời ngôi nữa
Tai lắng không
gian có tiếng cười
Khóc giữa thai
Khóc một lần rồi
thôi không khóc nữa
Khóc trong thai là
tiếng của mây trời
Khóc trong thai là
một tiếng cả cười
Là tiếng máu rơi
trên bờ lộ vắng
Khi những khác du
xưa đều mất dạng
Những hài xưa góp
nhặt xếp quanh đây
Để chiều chiều mở
hai mắt thơ ngây
Nhìn sương khói mà
tưởng mình sương khói
Một âm thanh nhập
về hai tiếng nói
Biển sóng reo bật
bẹ tử và sinh
Trăm con sông máu
mãi mãi vô tình
Nguồn thả xuống
một dòng xanh lảo đảo
Giữa trùng khơi ta
vẫn ngồi cấm khẩu
Lửa tà huy đốt
cháy ngọn tà huy
Ta đứng lên rồi
thổ não vô tri
Một phiến máu một
phiến gì giữa biển
07/3/1973
(Trích từ tập Gánh
nước tưới sông, Nxb. Đà Nẵng, 2010)
No comments:
Post a Comment