Tuesday, June 21, 2022

Văn hay 3

 

Thao thức mùa gặt

Chiều. Những giọt nắng cuối cùng buông xuống. Một vài vệt sáng cuối trời làm tôn lên vẻ đẹp của cánh đồng lúa. Một màu vàng mênh mông cứ thế trải dài, trải dài. Những lúa rảo bước trên con đường làng tôi chỉ muốn tận hưởng vẻ đẹp của một bức tranh thuỷ mặc thực sự. Lòng người bỗng dưng xốn xang một mùa lúa ăn sâu vào tâm trí của mỗi người.

Được trở về trong mùa gặt, những kí ức thuở ấy, những hình ảnh bây giờ lại rộn ràng trong tim tôi. Thực khó có thể nói hết cái cảm giác ấy, một đứa trẻ sớm đã được thưởng thức mùi sữa của lúa từ lúc còn nằm nôi. Thưở ấy nhà nghèo, mẹ tôi đã dùng nước cơm, nước cháo để bón cho tôi, những đứa trẻ quê đã lớn lên như vậy. Mùi sữa ngọt ngào của hương lúa vẫn còn thơm nồng trên đôi môi, thấm vào máu, chảy vào tim.

Thực sự như vậy. Lớn lên một chút âm vang mùa gặt lại vọng về bởi lời ru của mẹ, tiếng rơi nhẹ nhàng của hạt lúa rơi rớt xuống. Hồi đó chưa có máy suốt lúa, bố tôi bó lúa lại và dùng bẹ dừa để đập tách hạt. Làng vào mùa gặt ai nấy cũng ra đồng, trong nhà chỉ còn toàn trẻ con thế nhưng chúng không chịu ngồi yên một chổ. Dầu có thể bị rầy la nhưng rạ, lúa có sức hút mãnh liệt với những đứa trẻ, mặc cho da thịt có thể ngứa và đỏ lên vì xót...

Sau một mùa vụ cực nhọc thì những khuôn mặt đã trở nên tươi vui khi thành quả đã ra đời. Những gánh lúa lần lượt được đưa về sân, những bông lúa còn sót lại cũng được lượm lặt hết. Đã có một thời cố tôi đi mót lúa để “có hạt lúa cất trong nhà như người ta”, để ấm lòng trong những ngày rét, dẫu có rau muối thì có hạt lúa sẽ vững hơn, những lời nói của cố ngày nào vẫn văng vẳng trong tôi. Hạt gạo thực sự quý giá như thế, ngày xưa ngày nay và mai sau vẫn vậy. Tôi chợt nhớ đến câu khẩu hiệu “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” đã đưa đất nước ta đến bên bờ chiến thắng.

Một làn gió nhẹ thổi qua đưa mùi thơm nồng nàn của mùa lạ vương vấn trong tâm hồn.

Sau mùa gặt những cây rơm trải dài khắp xóm nhỏ đã trở thành đặc trưng hình ảnh quen thuộc của làng quê. Rơm rạ xót đến từng làn da thớ thịt nhưng lại cho người nông dân có cơm ăn, áo mặt, cho trẻ con được đến trường và hơn thế nữa. Kí ức tuổi thơ thấm sâu vào tiềm thức luôn gắn chặt với cánh đồng quê hương mà đám con nhà nông làm sao có thể quên được…

Cuối chiều. Mấy bông lúa trĩu hạt ngã hẳn sang một bên. Xóm làng vội vã cho những ngày gặt sắp tới. Vài con cò trắng muốt vẫn nhởn nhơ đi dạo, đàn trâu còn thẩn thơ gọi bầy chuẩn bị về chuồng. Chắc những đàn bò trên núi đang rất háo hức vì chúng sắp được xuống làng, được về với lúa…

PHAN NAM


 Góc phố có cây bàng


Góc phố ấy có nhiều nắng và gió dù ngày vừa lên hay đêm chuẩn bị vắt ngang qua. Ở đó, có cây bàng nằm im soi bóng mình theo từng bước chân lữ khách. Hội An trong nỗi nhớ của người xa quê, bỗng một ngày thấy da diết quá… Đơn giản chỉ là nhớ một góc phố thân thương, bình dị…

Xuân vừa qua phố, cây bàng già bỗng trở mình, những chiếc lá xanh thay màu lá đỏ - những chiếc lá đỏ thường được tôi nhìn thẳng và cho in lên nền trời xanh thẳm. Có một lần bạn tôi bảo, ở Sài Gòn hay bất cứ nơi nào bạn đến, bầu trời không bao giờ xanh như ở quê mình. Tôi nghĩ bạn thiên vị vì nhớ quê và yêu quê nên mới vậy. Nhưng rồi, chính tôi cũng thấy điều đó đúng. Nền trời ở quê, ngoài những ngày dông bão, mưa gió sụt sùi thì ở bất cứ nơi nào tôi cũng có thể thấy được cả một màu xanh ngắt và bình yên.

Hội An níu giữ người đến không chỉ bởi tấm lòng thuần hậu của con người nơi đây mà còn bởi những góc phố bình yên như vậy.

Có một buổi trưa nắng gắt, ngồi trong quán cà phê văn phòng máy lạnh ở Sài Gòn, tôi chợt nghe một cô gái nói giọng Quảng Nam thỏ thẻ với cậu bạn bên cạnh: “Ước gì bây giờ mình được ngồi ở Hội An. Em nhớ góc phố có cây bàng. Em thèm được đứng tựa lưng mình vào con hẻm nhỏ nhiều rêu xanh và anh với tay hái cho em một chùm hoa hoàng anh”. Cậu bạn nhẹ nhàng bảo: “Hôm nào mình về lại Hội An nhé! Anh cũng nhớ những góc phố. Anh sẽ đưa em đi qua tất cả con hẻm nhỏ thơm mùi hương trầm”. Tiếng cười nũng nịu khe khẽ như xóa tan cả buổi trưa nắng gắt.

Tôi chợt nhớ những câu thơ của Chế Lan Viên: “Yêu ở đâu thì yêu/ Về Hội An xin chớ!/ Hôn một lần ở đó/ Một đời vang thủy triều...”.

Có một dạo, người ta chê Hội An lúc này sao thương mại hóa quá. Khách đến vào dạo chơi phố cũng bắt mua vé, người Hội An gốc không còn nhiều nữa mà thay vào đó là những người ở miền khác đến. Người ta chê Hội An không còn là Hội An ngày xưa nữa. Đem câu chuyện đó để nói giữa Sài Gòn, người Quảng sẽ cười và lắc đầu bảo: “Ngó rứa chớ không phải rứa! Cứ về đi rồi biết! Ngồi chỗ mô, đi chỗ mô, ăn chỗ mô cũng thấy chất Hội An. Có dễ gì ai làm lai tạp cái chất thuần hậu vốn có của người Hội An”.

Chợt nhớ ra để nghĩ về những góc phố có cây bàng. Thì cũng đã nhiều mùa lá xanh rồi đỏ và rụng rơi nơi những con phố đó. Vẫn hàng nghìn bước chân du khách ngang qua và thi thoảng nhìn lên những bầu trời xanh ngắt để thấy những lộc non mơn mởn đầy nhựa sống yên vui.

Kệ, phố có đi qua bao mùa mưa nắng. Nỗi nhớ là không tên. Hội An vẫn trầm mặc trong miền ký ức của mỗi một người xa quê. Chợt nhớ thêm những quang gánh với tiếng rao của bà của mẹ vang vọng giữa một miền không gian thăm thẳm.

 

H.DUNG

 

Dấu quê còn mãi dưới bóng mùa phai – Trần Hiền

 

Ta tìm về lối nhỏ trong một chiều nhạt nắng, chút tàn rơi vàng óng vạt cỏ mềm. Cây khế già nơi góc vườn tần ngần gỡ gió, buông lơi hương lành giữa thảm lá vàng đã rơi lâu thành mục. Nền đất vì thế mà mát rượi, thơm nồng mùi ngai ngái của đất xưa. Ta khẽ đưa tay vào từng thớ cây thớ cỏ để nhớ một thời hồn hậu với đất lúa, với mái ngói nâu già tháng năm trôi thành cũ, với bức tường bê tông quét vôi trắng đã bao ngày phai dấu bởi rêu phong.

Nhìn đâu đây như bóng bà quét sân mỗi chiều cất nắng, ông ngồi vót tre đan giỏ nơi chái dại sau vườn. Từng lũy tre nghiêng dài cùng bóng chiều hiu hắt, giữa ao làng bọn trẻ làm vang động những khóm sen. Bóng cây phủ tràn đầy lên góc vườn mờ tối, tiếng ếch nhái kêu ran sau những liếp cỏ dày. Vài thanh tre dài gác tạm sau chái bếp, dùng để rào giậu vài khoảnh vườn rau, để đàn gà tung tăng nơi khóm khoai gốc chuối sẽ e dè tránh mổ những mầm non. Ta sẽ thấy bóng chiều hôn tạm biệt lên ngọn cau rồi tan mất, chỉ còn những đám mây trôi nhẹ giữa tầng không. Bóng đêm kéo chăn mềm đắp lên làng quê nhỏ, để rực vàng bếp củi lửa vừa nhen.

Ta bước khẽ chân trần trên nền sân gạch, một niềm xưa quen thuộc bỗng trội mình. Đôi bàn chân ta như uống thật no những hiền hoà dung dị bởi đất quê mình mát dịu lắm thay. Một nỗi nhớ tinh khôi bỗng buông mình rất khẽ, cựa vào miền nhớ những yêu dấu thanh bình. Nơi ngõ nhỏ cây leo lâu thành giậu, bỗng khao khát tìm câu hát ru xưa, câu ca dao mẹ hát hoài không nghỉ có cánh cò trắng muốt giữa đồng xa. Để lắng nghe tiếng quét lá sạt sạt đầu hè, để thấy bên góc cửa sổ có bóng ai ngồi la đà bơm mực vào chiếc bút máy kim tinh. Để lại nghe tiếng bà mắng um lên nơi chuồng lợn béo, tiếng gà gù rù gù rù khi đêm chưa kịp đặc quánh đã im lìm.

Rồi ta sẽ ngồi thật lâu bên những chum sành đã cũ, nơi ghi dấu đôi bàn tay của mẹ của bà trải qua những ngày đông tháng giá lạnh cắt ruột gan. Nào chum đựng gạo, đựng muối, nào chum đựng ruốc, đựng tương, chum dùng muối cua, chum đựng tương bần. Một dấu tích của năm xưa hiển hiện, những năm đèn dầu khói toả nhà tranh, những năm lắng lo bữa mai bữa mốt. Những năm bà còn mặc tấm áo nâu sòng, chiếc quần lụa đen, quấn khăn vành tóc. Những năm cha mặc chiếc quần vải nâu tanh tưởi mùi bùn. Ngõ làng quanh co dưới bóng tre và trúc, những mái tranh đơn bền bỉ giữ nếp nhà.

Để những đêm cuối thu chờ gió mùa đông bắc, ta lặng nghe tiếng khế rụng bên hè. Nghe tiếng bà nơi cuối nhà ho khẽ, ông mở tủ tìm mảnh chăn bông sợi được làm từ vỏ cây đay đem lên người đắp ấm. Cả ngôi nhà như chùng chình trong hơi ấm quen thuộc cổ kính của bao mùa. Mùi chăn cất lâu trong tủ thường làm cho lòng ta nao nao hoài cổ, một mùi hương rất quen và cũng rất cũ cứ xông lên đầy ắp khoang mũi, kéo ký ức ta dạt trôi giữa những ngày giông gió ngày xưa. Để ta nghe những cựa mình chậm rãi giữa đêm thâu. Để đất đai xứ sở như hoá thân vào từng ngõ ngách của máu huyết con người, để hồn quê bền bỉ giữa muôn trùng những đổi thay náo nhiệt.

Và mùa giá rét trôi cho mùa xuân chạm ngõ, những nồi bánh chưng xanh sẽ mãi sôi ùng ục giữa sân nhà, đêm ba mươi vài cành đào nở rộ, cho một khắc giao thừa vạn vật sẽ sinh sôi. Để ta về ôm choàng lấy manh áo ấm bằng bông dày, ông treo nơi góc tường, sau chân giường bằng gỗ xoan đã cỗi già nâu bóng. Ôm chiếc áo vào lòng ôm cả nỗi nhớ dẫu xa xôi. Ta bước tìm nơi phòng xưa nhà cũ, một nỗi yêu thương bền bỉ mãi trong hồn. Hồn quê xưa đó, nếp nhà xưa đó, vẫn mãi còn nghiêng bóng giữa bao dấu mùa trôi. Là bởi vì hồn quê đã hoá thành cội rễ, có ai thành người nếu "thiếu, bỏ quê hương".

Bước chân trần giữa nền đất của mảnh vườn đầy cỏ dại, nghe rắc rắc tiếng cành khô mục cũ, nghe xào xạc tiếng lá rộm cỏ dày, nghe hương đất thấm dần qua da mỏng, nghe tiếng gọi của ngày xưa vọng về.

Để hoà trộn hồn quê trong huyết mạch, vẫn bền bỉ mãi hoài giữa những bóng mùa phai.

 

 

No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...