HUẾ TRONG THƠ CỦA TÁC GIẢ TRẦN THỊ CỔ TÍCH
DƯỜNG NHƯ
Thơ : Trần Thị Cổ Tích
dường như Huế đợi tôi
tháng ba sao đất trời còn run rẩy
bàn tay ai vẫy hoài rêu phong
dường như có đôi mắt nào ẩn sâu trong mưa
cà phê Trường Tiền nhuộm nâu ngày xa vắng
tôi không về khói thuốc có vàng tay?
dường như ai hát trong cơn say
tôi con ốc vụng về náu trong lòng biển
thở bài ca dang dở
một bước vội vàng nuối tiếc trăm năm
ai gọi tôi ư? dường như là tiếng sóng
sông Hương ơi tôi sẽ quay về...
VỀ HUẾ
Thơ Trần Thị Cổ Tích
bước rón rén kẻo giật mình trưa Huế
tôi trở về tìm trong-vắt-nụ-thời- gian
hoàng thành xưa xốn xang màu rêu nhớ
sông Hương ngừng trôi sững một câu hò
tôi vén từng con sóng tìm em
tìm bóng dáng bạn bè
tìm giấc mơ giấu trong lòng Huế
thuở lá non tơ cứ tưởng đã xanh cành
em bỏ Huế đi đâu
để bao năm qua những con đường quên ngủ
hoa bâng khuâng ray rứt tím trên đồi
nhịp Trường Tiền nửa vòng cong lơ lửng
Túy Vân bạc đầu khản giọng gọi mùa xanh
siết tay Huế
siết tay những ngọt ngào rất Huế
phút yên bình tôi cười khóc với… tôi xưa…
Chị có một bút danh thật thi vị: Trần Thị Cổ Tích.
Như một giấc mơ giữa đời thường sóng gió , trăn trở. Như câu chuyện thơ mang hương vị xa xưa.
Mà quả thật thơ chị là những câu chuyện muôn màu của cuộc sống đến với chúng ta: nhẹ nhàng êm dịu, rất cổ tích mà cũng rất thực.
Hình như tôi đã biết đến tên chị lâu lắm rồi, trên trang thơ của bạn bè. Nhưng tôi chưa được đọc thơ chị.
Lần đầu tiên tôi biết đến thơ chị là khi đọc bài thơ “ Bắt đầu”
Và tôi như say thơ chị, yêu dòng cảm xúc trầm mặc nữ tính đến lạ lùng của một người phụ nữ miền Trung trong bài thơ ấy.
BẮT ĐẦU
đã bắt đầu. đêm nghĩ về nhau
phương xa dòng nước có xanh màu
thuyền qua từng nhánh sông lấp lửng
có nhánh riêng nào cho mai sau
đã bắt đầu mơ. bắt đầu mơ
nửa khuya trăng thả một giòng thơ
à ơi ve vuốt hoài thân sóng
sóng rung sóng động sóng vỡ bờ
đã bắt đầu nhớ một người thôi
nghe chừng hơi thở đốt bờ môi
nghe chừng hương ấm luồn da thịt
gió xoắn về đâu gió rã rời
đã bắt đầu quên bẵng nỗi buồn
náo nức lưng trời thánh thót chuông
ngày lên trổi tiếng kinh cầu ấy
lộng lẫy trong lòng một tiếng... thương
Thơ Trần Thị Cổ Tích.
Sau đó tôi luôn theo dõi chị. Dòng cảm xúc bất tận của chị trôi trên dòng thơ: Dịu dàng mà khoáng đạt, nhẹ nhàng mà cũng vẫn rừng rực men say. Và điểm đặc biệt làm cho thơ chị không lẫn với một ai. Chị sở hữu một giọng thơ rất nữ tính, như một người kể chuyện cổ tích, rất đúng với tên chị
Đọc thơ chị ta thấy nét đẹp dịu hiền, dịu hiền đến đắm say của người phụ nữ Việt Nam. Cái nét dịu hiền đến nao lòng qua những vần thơ mượt mà. Không cầu kì, không rối chữ. Chẳng hề khó hiểu, chẳng hề phải bận bịu suy đoán ý nghĩa. Thơ chị như dòng chảy ca dao dân ca trong sáng vẫn đang lan tỏa trong những tâm hồn Việt. Câu chữ cứ tự nhiên thôi, tự nhiên thổn thức, tự nhiên dạt dào trong nhịp trắc bằng thi vị của thơ ca.
Tôi cũng rất thích thơ mới hiện nay. Thích cách dùng từ so sánh mới lạ của nhiều nhà thơ trẻ, thích những ví von trí tuệ đến mức phải ngạc nhiên, bất ngờ trong thơ họ.
Nhưng quả thật là phụ nữ,tôi luôn ưa chuộng cái tự nhiên, cảm xúc dâng trào khi đọc thơ mà không bị gò bó nghĩ ngợi nhiều.
Tôi đến với thơ chị như một độc giả nhiệt tình. Tự do thăng hoa trong cảm xúc, điều tôi thích nhất khi đọc thơ. Mà lại là cảm xúc của một nữ sỹ cũng luôn dịu dàng như thơ chị.
Cũng muốn có lần viết gì đó thật dài, thật bay bổng về thơ chị nhưng vẫn luôn chỉ là những comment ngắn gọn
Hôm nay bất chợt đọc được hai bài thơ về Huế của chị. Cảm xúc chợt dâng trào và xin phép chị được viết bài bình luận này.
Huế tôi yêu từ tấm bé. Huế tôi đã gặp trong những câu hát ngọt ngào từ ngày biết nhận thức. Huế tôi đã được đến sau bao tháng ngày mơ ước
Huế đó. Rất giống Huế yêu thương trong tâm tưởng của tôi và bao người. Mà lại có nét gì đó rất riêng, rất riêng của chị. Người phụ nữ miền đất Quảng Ngãi gốc Huế.
“dường như Huế đợi tôi
tháng ba sao đất trời còn run rẩy
bàn tay ai vẫy hoài rêu phong
dường như có đôi mắt nào ẩn sâu trong mưa
cà phê Trường Tiền nhuộm nâu ngày xa vắng
tôi không về khói thuốc có vàng tay? ”
Bước mùa len lỏi trong nhịp thơ êm dịu. Mùa đông đã qua chưa mà tháng ba nắng xuân còn làm “ đất trời run rẩy”.
Có phải đất trời run rẩy không hay là đôi môi run, bàn tay run, cái run rẩy về từ nỗi nhớ đã “rêu phong” mà vẫn sống động đến thế, đáng yêu đến thế. Sự ẩn dụ thật tinh tế.
Rồi một Trường tiền, nhưng sáu vài mười hai nhịp đã mờ ảo đi sau sắc cà phê, sau màu khói thuốc.
Trường tiền trong thơ chị vẫn ẩm ướt , nhưng cái ẩm ướt từ “đôi mắt nào ẩn sâu trong mưa” mới thực sự làm ướt cả vần thơ, ướt lòng người
Đọc câu thơ “cà phê Trường Tiền nhuộm nâu ngày xa vắng” tôi bỗng ước ao được trở lại Huế nhưng không phải lướt qua Trường Tiền hay ngắm sáu vài mười hai nhịp cầu Trường Tiền đổi màu ánh sáng trong đêm mà sẽ ngồi thật lâu, thật lâu một quán nhỏ đìu hiu nào đó bên bờ sông Hương nhâm nhi cảm giác Huế
Một Huế thơ mộng trong mắt người lữ khách, hay một Huế xa vắng của người sinh viên Huế:
“ tôi không về khói thuốc có vàng tay? ”
Ngày ấy đã xa chưa, ngày ấy vẫn còn đây hay ngày ấy chỉ còn trong nỗi nhớ, chàng sinh viên Huế và một cô gái mái tóc dài thướt tha: Áo em màu tím Huế hay dù áo em không màu tím thì anh vẫn thấy Huế tím trong mắt em.
“dường như ai hát trong cơn say
tôi con ốc vụng về náu trong lòng biển
thở bài ca dang dở
một bước vội vàng nuối tiếc trăm năm
ai gọi tôi ư? dường như là tiếng sóng
sông Hương ơi tôi sẽ quay về...”
Đây, tôi yêu điểm này trong thơ chị. Câu thơ mà không phải câu thơ, Đó là câu hát ai đó đang ngân lên. Nó kín đáo như một ánh mắt xa xôi, e ấp như một lời nói vừa thốt ra mà lại nồng ấm lắm, đằm thắm lắm , như dòng Hương xanh biếc ngàn đời, thủy chung sâu lắng.
Trong bài thơ thứ hai bài “ VỀ HUẾ” ta gặp những câu chau chuốt đến từng từ mà vẫn trong veo màu Cổ Tích
“bước rón rén kẻo giật mình trưa Huế
tôi trở về tìm trong-vắt-nụ-thời- gian
hoàng thành xưa xốn xang màu rêu nhớ
sông Hương ngừng trôi sững một câu hò”
Hay là
“em bỏ Huế đi đâu
để bao năm qua những con đường quên ngủ
hoa bâng khuâng ray rứt tím trên đồi
nhịp Trường Tiền nửa vòng cong lơ lửng
Túy Vân bạc đầu khản giọng gọi mùa xanh”
“ bước rón rén kẻo giật mình trưa Huế”. Chị viết tự nhiên đến lạ lùng. Cả nhịp thơ như cũng nhẹ bẫng đi , nhè nhẹ trôi, nhè nhẹ lan tỏa kẻo cái trầm mặc của Huế sẽ bị phá vỡ, cái màu rêu nhớ xốn xang của hoàng thành Huế sẽ khô mất…
Thế mà Huế vẫn mỏng manh, lay động: “sông Hương ngừng trôi sững một câu hò”
Câu từ, ý tứ cứ hòa quyện thi vị , êm dịu và lả lướt.
Dùng một câu thơ trong bài của chị để so sánh
“tôi vén từng con sóng tìm em
Chị đã vén lòng mình, khu vườn thơ xanh màu kí ức, để Huế của riêng chị hòa nhập vào Huế mộng mơ .
Đọc thơ Huế của chị sao yêu Huế nhớ Huế vô cùng.
Nếu như tôi và độc giả không có dịp đến Huế thì như đã gặp Huế ở đây, trong thơ của nữ sỹ Trần Thị Cổ Tích.
Chị còn viết rất hay về Quảng Ngãi về Pleiku… Tôi đã được nghe chị đọc thơ trong một video trên trang chị. Và một dịp tình cờ gặp video trên mạng: Nghệ sỹ Lan Hương ngâm thơ bài “Em Pleiku”của chị.
Xin phép được đưa một phần hai video này vào chung trong video về hai bài thơ Huế của chị.
Chúc chị Trần Thị Cổ Tích luôn dồi dào lực bút để nguồn cảm xúc bay bổng của chị luôn tràn trên những con chữ yêu thương.
Chúc chị , gia đình và bạn bè vượt qua những ngày đại dịch Covit 19 một cách lạc quan.
Người viết: Giang Hồng
Ngày 6.8.2020
GIỚI THIỆU CHÙM THƠ CỦA TRẦN THỊ CỔ TÍCH
Ai cũng nói Hương giang trầm lắng, êm chảy vì ít thác ghềnh. Nhưng tôi thấy êm lắng chỉ là bề mặt nước sông. Còn dưới đáy sông kia, Hương giang cuộn xoáy. Mà ở đời khi sự ‘náo động lòng’, ‘ẩn uất lòng’ (cứ cho là của sông đi!) không thể thể hiện được ra bên ngoài (bề mặt) mà ráng ủ bên trong, dưới tận lòng sâu thì dữ dội vô cùng.
Có phải vì thế mà sáng sớm mặt Hương giang thường phủ đầy sương khiến Tràng Tiền chỉ còn thấp thoáng như một nét mày u ẩn (cái hơi nước ẩn uất lén bốc lên trong đêm để khỏi ai nhìn thấy sau một ngày chịu đựng nhục nhằn – Huế mà)? Nhìn sương phủ cầu Tràng Tiền, nhà thơ cho đó là màu sương lãng mạn
Mờ sương duyên dáng Tràng Tiền
Nét mi cong gương mặt hiền Cố đô – MBA
nhưng biết chừng đâu đó là cái hơi ngùn ngụt bốc lên từ một nỗi nén chịu đến đớn đau! Tôi nghĩ thơ sẽ giải mã những tín niệm hoài nghi ấy, vì thơ thường nói thật, không giấu diếm. Thật mới hay, mới chính là mình.
Đọc thơ Trần Thị Cổ Tích không hiểu vì sao tôi cứ miên man nghĩ về con “sông thơm” ấy. Tôi hoài nghi. Tôi đã hỏi. Và tôi đã được trả lời: “Trần Thị Cổ Tích tên thật là Trần Thị Trầm, quê quán: Huế. Sinh trưởng ở Quảng Ngãi”… Phải chăng do sự tác động của khí chất Quảng mà thơ chị tự nhiên hơn khi thổ lộ những kiềm nén mà người Huế thường ít nói vì sự tế nhị, âm thầm của xứ mưa rơi?…Và tôi đã mượn thơ TTCT để giải mã những ‘ẩn uất’ mà tôi đã mạo muội nói trên (Người Huế có ai giận tôi thì cũng mong thứ tha cho cái thằng dân ‘Quảng Nôm’ hay ưa nói thẳng).
Trong chùm thơ 6 bài tôi chọn ở đây chỉ duy có 1 bài cuối cùng là còn âm hưởng của cái tên “Trầm” của TTCT. “Trầm” thì rất Huế rồi, nhưng Cổ Tích thì rõ ràng là xưa hơn Huế nữa. Chỉ có những người thơ dám trải thật lòng mình ra trang giấy sau khi cảm nhận “chín rục” nỗi đời thì mới đạt những câu thơ “Ngộ” mà theo tôi là một bài “Chánh Ngộ”:
Thôi
Không còn chỗ đi về
Ngồi đây với cỏ
Bên lề nhân gian
Long lanh giọt giọt chuông vàng
Gội cho sạch
Hết gian nan cuộc người”.
Bài Lục bát chỉ vẻn vẹn có 2 cặp 4 câu được chủ định cắt thành 7 dòng thơ mà gom cả hết cái “cuộc người” giữa một cuộc rộng lớn nhân gian “không chỗ đi về”. Nhưng thơ đã về được để “ngồi với cỏ” để nghe (không phải nghe âm thanh mà cảm nhận) “giọt giọt chuông vàng” thì ngộ đến là đốn ngộ.
Còn lại là những vần thơ “thoát hơi sương” của những kiềm nén dưới lòng sâu bùng lên như một sự giải tỏa/giải thoát với những “Trăng mật xuân”, “Lảo đảo Túy vân” cuộn sóng, ngả nghiêng bởi sự bùng dậy mãnh liệt của những hỏi đòi đầy tính nhân văn thoát ra khỏi cái bề mặt lừa người bằng sự êm đềm, suông chảy: “Này xống áo này dép giày này mũ nón/ Hãy tung vào một xó”. Vứt hết, tung hê để lao vào một “trăng mật” ngất ngây cùng sự hòa điệu của “ham hố xuân, khát vọng xuân”:
“Đêm huyền diệu đêm chơi vơi đêm ngạt ngào hương xuân ngây ngất
Ta ngã vào xuân quyện vào xuân bay lên bay lên đỉnh trời bát ngát Nước bềnh bồng mây bềnh bồng gió mơn man lời hoa dìu dặt”…
Những câu thơ trải dài, trút bỏ “xống áo” buộc ràng, mở lòng ra, bay bổng lên trong ngây ngất “chơi vơi”, “bay lên đỉnh trời”, “bồng bềnh mây gió”, “mơn man dìu dặt”… Bao năm kìm nén dưới đáy sâu lòng mình, nên chỉ cần 5 phút chia tay khi con tàu sắp chuyển mình, ở “toa số 9”, họ “vẫn kịp” làm tất cả cho sự trọn vẹn của những hỏi đòi ở một cuộc chia tay. Thỏa thuê mà không đánh mất; vẫn giữ trong nhau, “vẫy vùng trong mắt nhau” khi bóng người dần khuất:
“Vẫn còn kịp cài nụ hôn lên tóc
Và kịp thấy
Trong đáy mắt nhau
Những giọt lệ vẫy vùng”.
Nước vẫy vùng dưới đáy sông sâu chính là “Những giọt lệ vẫy vùng trong đáy mắt” nhau. Với TTCT, hồn tưởng đã chết theo tháng năm kìm nén để con tim lạnh trắng, thì chính thơ đã đến vỗ về, cứu rỗi để bật lên những dòng thơ vừa lắng đọng thâm trầm vừa cháy bỏng khát khao:
“Thất thểu lề đời
Tôi đi
Hoàng hôn thăm thẳm
Tìm lời ru
Vỗ về
Con tim trắng.
MAI BÁ ẤN
( nguồn : Bichkhe.org - 2011)
Chùm thơ của Trần Thị Cổ Tích
TRĂNG MẬT XUÂN
Này xống áo này dép giày này mũ nón
Hãy tung vào một xó
Ta và xuân
Nguyên thủy rạng ngời
Đêm huyền diệu đêm chơi vơi đêm ngạt ngào hương xuân ngây ngất
Ta ngã vào xuân quyện vào xuân bay lên bay lên đỉnh trời bát ngát
Nước bềnh bồng mây bềnh bồng gió mơn man lời hoa dìu dặt
Ngực biển phập phồng phả làn hơi ấm
Ngàn cây run run bật nảy chồi xuân
Xuân hỡi xuân ,xuân tràn trề mật ngọt
Em, em ơi! Uống cạn môi mềm
Xuân của đất của trời là mãi mãi
Còn xuân đời có trở lại không em?
KỊP
Đã dặn nhau
Đừng đưa tiễn
Tàu còn năm phút rời ga
Sao cứ đăm đăm về một phía
Cửa toa số 9
Không anh
Tàu còn bốn phút
Gió lùa cửa toa số 9
Thời gian căng dài khắc khoải
Vội chi tàu ơi
Còn ba phút
Lao vào
Mớ tóc lòa xòa
Đôi mắt kiếm tìm
Thảng thốt
Nắng ga trưa dìu dịu mơ màng
Vẫn còn kịp mỉm cười
Vẫn còn kịp siết tay
Vẫn còn kịp cài nụ hôn lên tóc
Và kịp thấy
Trong đáy mắt nhau
Những giọt lệ vẫy vùng
LẢO ĐẢO TÚY VÂN
Túy vân Túy vân
Hồn mây lảo đảo
Nhỏ giọt rượu đào
Choáng váng hồn ta
Ngời ngợi trăng xưa
Thức cùng cát trắng
Biển hát ru người
Lời ru xa vắng
Biển gió hôn người
Nụ hôn thầm lặng
Sóng bạc trăng vàng
Mênh mang mênh mang…
Ta người bỏ cuộc
Quên mất một người
Nhìn theo không nói
Mây cuồn cuộn trôi
Một thời thanh xuân
Một trời hoài bão
Vòng đời cuốn xoay
Ngồi ôm mộng ảo
Một chiều
Dạo sân trường cũ
Giật mình
Gặp lại túy vân xưa
Túy vân Túy vân
Sương nhuốm mái đầu
Hồn mây còn ngấm
Rượu đào năm nao…
Ta người có lỗi
Ngóng theo một người
Lời kinh sám hối
Điêu tàn trên môi
MỘT BÓNG
Tấp tễnh đường đời
Tôi đi
Thét gào gió
Não nùng mưa
Cung đàn xưa
Lặng ngắt
Cánh buồm thơ
Khao khát biển hẹn thề
Thất thểu lề đời
Tôi đi
Hoàng hôn thăm thẳm
Tìm lời ru
Vỗ về
Con tim trắng
Có còn không
Đóm lửa xa thắc thỏm
Góc vườn xuân
Ai thắp?
Đợi tôi về?
VÀ… TÔI HIỂU
Cái gã ba lơn ngày ấy
Giờ ra chơi nào cũng gọi tên tôi
Để rồi nhận lại
Cái nguýt dài
Rất chảnh
Dòng đời bon nhanh
Mỗi người một cảnh
Gã lại gọi ngày gọi đêm
Gọi mưa gọi nắng
Gọi khi đời bầm dập
Gọi khi lòng đớn đau
Gọi lâu đến thế mà tôi không nghe
Đến khi nghe rồi sao tôi không hiểu
Trời đất ơi!
Gã dấu tình yêu ở đâu kỹ thế?
Ba mấy năm rồi vẫn trong trẻo tinh khôi
Chiều nay gã lại gọi tên tôi
Giữa những dòng thơ
Và…tôi hiểu…
NGỘ
Thôi
Không còn chỗ đi về
Ngồi đây với cỏ
Bên lề nhân gian
Long lanh giọt giọt chuông vàng
Gội cho sạch
Hết gian nan cuộc người
Trần Thị Triều Dương
Cám ơn bác sĩ Nguyễn Duy Long đã nhắc đến chị Trần Thị Triều Dương, gợi lại một thời sinh hoạt văn nghệ áo trắng sôi nổi và trong sáng ở thị xã Quảng Ngãi chúng ta những năm đầu thập niên 1970 với các bút nhóm Thi Hoài Vũ, Áo Trắng...
---------------------------------------------
Thơ đất Cẩm Thành (5): Đoản khúc tình yêu
Nhà thơ Trần Thị Triều Dương (1952 – 1979), tên thật Trần Thị Kỳ, nguyên quán Thừa Thiên, sinh tại thị trấn Sông Vệ, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Học Văn khoa Sài Gòn (1972), Sư phạm Qui Nhơn (1973) và là tổng thư ký Bút nhóm Thi Hoài vũ(1), Thi Văn đoàn Âu Cơ Quảng Ngãi (1971), thư ký Ban Báo chí Hội Ái hữu Sinh viên Học sinh Quảng Ngãi tại Sài Gòn (1972 – 1973).
Những năm trung học, đã có thơ đăng các báo địa phương và ra mắt tập thơ “Vết mực tím”(2). Hai chữ ”Triều Dương”(3) trong bút danh phải chăng là hướng về phía mặt trời, biểu tượng của sự bừng sáng, khởi đầu của sự sống, có thể thanh lọc phiền muộn và sưởi ấm không gian hoang lạnh. Ai cũng nghĩ vậy nhưng dường như nó lại không vận vào đời người còn trang thơ lại chen ngang một kiếp người tàn phai, nằng nặng tiếng nhạc trầm buồn, chênh chao phong vị sầu mộng và tròng trành trôi về miền vô định.
Nhà thơ suy tư khác với tâm hồn non trẻ, trong veo thuở đôi mươi: “Sự trở mặt nằm trong sự đổi thay đó là vết bầm của đời sống...” (Cho bạn bè và người yêu).
Trong phong khí tự do và phóng khoáng của thời đại, trái tim đa sầu không ngần ngại hé mở giấc mơ thầm lén. Tiếng thơ như lạc điệu giữa khung trời tuổi biết buồn, của giọt mực tím bằng lăng, của cuộc sống tươi non đang độ xuân thì.
Khu vườn tình ái thơ mộng nhưng sao người thơ chỉ gặp gỡ khổ lụy và hoài nghi. Tình duyên bồng bềnh, đến rồi đi, tụ hội chẳng được bao ngày:
”Tình si một chút hương thầm
Bầy chim én đến đổi mùa thênh thang
Hồng môi tà áo lụa vàng
Lụa vàng tình cũng theo nàng thiên thu”
(Từng nấc thang cuộc đời – Bài 6).
Và gợi lại hình ảnh một thiếu nữ xuân sắc và kiêu sa không tìm được cánh cửa dẫn vào xứ sở yêu thương:
”Cũng bởi ta ưa lênh đênh nên nhiều cuộc tình cúi mặt
Và đếm đốt tay buồn nghe chua xót lần đi”
(Trần tình).
Ấy là vì bầu trời tình yêu huyền hoặc không còn trinh nguyên nữa, lạnh lòng và quạnh quẽ, không hẳn khinh bạc mà đành gắng gượng:
”Ta treo sợi nhớ trên nguồn
Buổi chiều đi xuống nhện buồn sa mau
Nắng hong tình đổi thay màu
Ừ thôi cũng thế trước sau một lần”
(Đốt tình).
Ấy là vì tâm trạng của tuổi trẻ bơ vơ và tê tái:
”Một lần ta do dự trước thềm đời hanh nắng
Ta đưa tay lên che mát mặt mình
Cũng bởi ta cần sự cô đơn với từng đêm hiu hắt
Nên ngày tháng qua vài tuyệt vọng xuống đời”
(Trần tình).
Đầu này ngấn lệ, không thể nào buông bắt tình yêu như ân sủng của cuộc đời:
”Vàng lên tình đã mong manh
Ngày về ngày cũng long lanh giọt buồn
Hai tay thả nhẹ tình buông
Nghe mưa đổ xuống về nguồn đất xưa”
(Từng nấc thang cuộc đời – Bài 5).
Đầu kia đong đưa với cuộc đời đa sự, không mấy kẻ tri âm, không mấy người tri kỷ, đành buông xuôi đón nhận chút hương thừa và chìm vào sự lãng quên:
”Hai tay xin mối tình thừa
Đứng lên đón đợi mùa mưa ân tình (...)
Võ vàng nhân thế chơi vơi
Phân vân số phận ngàn đời lãng quên)
(Cho một lần lãng quên).
Và thảng hoặc lắng đọng chút bóng dáng hao gầy lẽo đẽo giữa bụi bặm đường trần quẩn quanh, mòn mỏi:
”Rồi tâm hồn em, rồi ý nghĩ của em
Đừng bao giờ đón nhận những phiền hà, xấu xa trong cuộc sống này
Em ơi! Cho em tình thương ngọt ngào
Xin làm thân đợt sóng xóa tẩy những ưu phiền của năm tháng sẽ hằn lên tâm hồn của em”
(Nhắn gửi).
Lời bộc bạch như là một xác tín hắt lên kiếp phận trầm luân:
”Ta cúi đầu đi vào trong giấc ngủ
Muốn hóa sanh vào loài thảo mộc vu vơ (...)
Gió vẫn trôi trong hồn cơn bão tố
Ta chứng nhân nên ân hận ngàn đời”
(Còn ngôn từ nào).
Tiếng thơ thật đẹp, thật buồn và đầy nhạc cảm đến nao lòng:
”Sầu đong còn đọng bên trời
Lá vàng hiu hắt chơi vơi hình hài”
(Từng nấc thang cuộc đời – Bài 9).
Nhưng nào ai tiên cảm được điều gì đợi chờ ở bến bờ khúc khuỷu phía trước. Có linh giác nào ám gợi âu lo vô hình về ”cung đàn bạc mệnh” khép lại dòng đời khi chưa đầy ba mươi tuổi:
”Ừ thôi một kiếp heo may
Người về người cũng theo ngày thênh thang
Xác thân rữa mục bàng hoàng
Từ trong nắm đất võ vàng tình si”
(Từng nấc thang cuộc đời, bài 1).
Không dừng ở đó, nhà thơ tiếp tục chạnh nghĩ về giấc mơ đời hư ảo, thao thức về sự chật hẹp của kiếp người, thắc thỏm về cái vô nghĩa của kiếp nhân sinh và viết lời định mệnh dành cho chính mình:
”Hai tay xuôi cũng thế rồi
Một mai nắm cát cũng trôi một đời”
(Bài ca hôm nay).
Đời người ngắn ngủi và Trần Thị Triều Dương đã kịp in bóng năm bảy đóa hoa ghi dấu ấn trong sinh hoạt tinh thần xứ Quảng, khu vườn thơ ca nói chung và văn chương nữ lưu nói riêng, xác lập một nhan sắc không lẫn giữa hồn thơ học trò thuở ấy. Với nhà thơ, hạnh phúc nào hơn khi thơ là chốn quay về là nơi trú ẩn, để mà rung cảm tin yêu và đợi chờ.
8.2020
---------------------------
(1) Bút nhóm Thi Hoài vũ. Ban điều hành. Trưởng nhóm: Hoài Thi. Phó trưởng nhóm: Vương Hoài Thương, Thụy Vũ. Tổng thư ký: Trần Thị Triều Dương. Trưởng ban nội vụ: Vũ Hàn Phương, Trưởng ban ngoại vụ: Huyền Huyễn Thạch. Với sự góp mặt của: Ngô Từ Thạch, Hoàng Trầm Tích Thạch, Hoàng Dzạ Lữ, Cà Cuống, Lam Điền Duy Bích, Áo Lụa, Trần Thị Cổ Tích, Lãng Du Tử, Phạm Linh Oanh, Ty Thỏ Đế, Dzã Trạch, Phạm Ngọc Sao Biển, Trần Thị Triều Dương, Song Lệ Thuỳ, Lê Minh, Vũ Hàn Phương, Nguyễn Đa Sự, Nhật Linh Trang, Hoài Ngọc Thu, Thu Thu Huyền Linh, Ngọc Linh. Với sự giúp đỡ của Hà Nguyên Thạch, Phan Nhự Thức, Đinh Hoàng Sa.
(2) Tập thơ in chung với Phạm Ngọc Sao Biển. Bút nhóm Thi Hoài vũ. Quảng Ngãi. 1971 (?).
(3) Trần Thị Cổ Tích, em gái của nhà thơ cho biết “Triều Dương” có nghĩa là nước biển dâng cao, thủy triều lên. ( Ý của nhà thơ TTTD)
Hình trang bìa và bìa trong "Vết mực tím" (Tư liệu của nhà thơ Trần Thị Cổ Tích).
No comments:
Post a Comment