Họ
là những người chung thân tịch lặng như cây rừng đá núi, không nói không viết
gì cả, nhưng sở đắc của họ thâm hậu như biển lớn. Nhìn họ đi đứng, sinh hoạt
cũng có thể hình dung phần nào phong nghi của hiền thánh ba đời. Họ sống trong
hiểu và thương, nhưng một đời thủ khẩu như bình. Ngõ vào và lối ra của ngôn ngữ
họ đã tự phong bế chỉ vì đôi lúc chỉ có sự im lặng mới diễn tả trọn vẹn được
cái cơ mật huyền ẩn của chánh pháp. Đến với họ, đừng kỳ vọng quá nhiều những
cái để đọc hay để nghe, hãy lắng tai và chong mắt để nghe thấy những ngôn ngữ
khan hiếm của họ. Thấy họ là thấy đạo. Từng lời, từng chữ của họ có thể là châu
ngọc. Họ không quen dùng ngôn giáo, và thay vào đó là thân giáo. Nhìn họ ăn uống
cũng đủ muốn rũ bỏ phàm tình.
Họ
có thể chỉ là một người vô danh ngoài đời trong đạo, nhưng chung thân tinh
chuyên dốc lòng với một công phu nào đó như là mật hạnh. Mật hạnh đó có thể là
khả năng nhẫn nhục bất động trước mọi tấn công cay độc khốc liệt. Họ lặng lẽ chịu
đựng trong sự thinh lặng của riêng mình. Và thử hỏi cái gì cũng có thể om sòm
chứ sự nhẫn nhục làm gì có tiếng động. Thế là nhẫn nhục cũng đáng gọi là một mật
hạnh. Họ chịu đựng trong niềm thương, trong thấu suốt, không tiếng nói. Mật hạnh
cũng có thể là đôi bàn tay luôn xòe mở trong sở hữu. Họ có thể cho ra bất cứ
cái gì họ có và cuộc đời cần. Họ có thể lam lũ rách nát, nhưng không thể cam
tâm từ chối trước một người cần đến thứ mình đang có. Họ chia sẻ trong sự lặng
lẽ, không kèn trống, không bảng vàng bia đá, không ầm ĩ huyên náo, đại khái chẳng
cần ai biết và cũng chẳng mong đợi sự đền đáp của người nhận. Họ cho ra bằng
bàn tay một người mẹ. Mật hạnh ở đây cũng có thể là một bàn tay không ngại nặng
nhọc, dơ bẩn để có thể làm mọi việc lao dịch vô danh nhưng cũng khó làm nhất. Đạo
tràng của người tu mật hạnh này đôi khi chỉ là nhà xí, hố rác, cống rãnh. Người
tu hạnh này chỉ mong đời thêm sạch, thêm đẹp, đổi lại mình có vì vậy mà dơ xấu
một chút cũng vui. Họ nhặt một cọng rác cho đời thêm đẹp và lòng họ thêm sạch.
Nhưng đời hiếm người thấy ra ý nghĩa đó, nên công phu của họ được gọi là mật hạnh.
Họ là những Bồ Tát đang dồi hạnh Huyền Mặc Tam Muội.
Ô
hay, người viết đang ra vẻ cao đạo để rao giảng huyền nghĩa chánh pháp khi
chính mình chỉ là một hạt bụi sơn môn ? Cho là thế hình như có chút khe khắc với
nhau. Sá gì vài ba ghi chép vội vàng mấy lời nghe được từ những tán lá xào xạc
sau am. Mùa đông đang tới, vài ba loài chim di trú vừa từ đâu tìm về và hót những
tiếng lạ…
TOẠI
KHANH
Minh Đức Triều Tâm Ảnh là bút hiệu của Tỳ kheo Giới
Đức, một trong những hàng cao tăng của Phật giáo Nguyên Thủy ở Huế. Ông cũng là
người khai lập Huyền Không Sơn Thượng trên hòn Vượn ở phía tây thành phố Huế.
Ngoài tu học và giảng
Phật pháp, ông còn viết văn, làm thơ (*) và viết thư pháp, tạo vườn cảnh phong
thủy hữu tình... Năm 2011 ông âm thầm chia tay với thi ca bằng tuyển tập bốn
cuốn thơ với tựa đề “Bụi, Trăng và Lửa” do Nhà xuất bản Văn học ấn hành.
Tôi không quan tâm
đến lý do một thi sĩ ly khai thơ. Bởi, thơ là dòng xúc cảm, sự cảm nhận của con
người với thế giới quan bên ngoài, hoặc có thể là cơn rạo rực từ bên trong mỗi
cá thể. Thế giới của thơ là sự bí mật của những cá nhân đơn độc, chỉ có thể
chia sẻ điều đó cho những tâm hồn đồng điệu.
Khi cầm trên tay bộ
sách “Bụi, Trăng và Lửa” do thi sĩ Minh Đức Triều Tâm Ảnh ký tặng cùng với lời
nhắn tràn ngập nuối tiếc “Thơ ơi! Xin giã biệt người!”, tôi cảm động nhưng vẫn
không tin con người đó có thể giã biệt toàn diện theo đúng tinh thần Thiền. Sự
giã biệt thơ, không phải là không làm thơ, không viết thơ, không in thơ. Theo
tôi, sự giã biệt chính là tinh thần đoạn diệt bên trong của tác giả.
Trở lại với những
dòng thơ giả hợp của thi sĩ Minh Đức Triều Tâm Ảnh, tôi xin được bắt đầu với
bài “Lộ trình đen hay lộ trình mây” đề tặng Phạm Công Thiện, Rimbaud và
Nietszche được viết cách đây bốn mươi năm (1976). Chúng ta đều biết mây là một
giả hợp được tạo ra từ nước, chỉ với một câu “Có khi nào vĩnh cửu ngụ trên
mây!”, nhà sư nhà thơ đã nêu ra một câu hỏi khẳng định, vì cuối câu là một dấu
chấm than.
Câu thơ phá tan sự
hoài nghi, đi thẳng vào trung tâm của vấn đề giả hợp giữa cái trường tồn và cái
giả tạm. Sự vĩnh cửu ngụ trên cõi giả tạm, chúng ta nhận ra ngay sự phi lý của
logic. Chỉ một câu thơ như thế, tôi tin rằng nếu Rimbaud hay Nietszche hay Phạm
Công Thiện tỉnh mộng sẽ bay về “đỉnh cô phong” để bắt tay cùng thi sĩ.
Trong bài “Cảm tạ và
đóng đinh” đề tặng Nikos Kazantzakis với tác phẩm “Xin chọn người yêu làm
thượng đế” thi sĩ đã cảm nhận thực tại như một sự thất bại toàn diện qua hai
câu thơ “Hiện hữu nào không là những thây ma/ Hiện hữu nào không nhân danh vĩnh
cửu”, hai câu thơ đó một lần nữa khẳng định sự giả hợp của thực tại, của hiện
hữu.
Đọc thơ Triều Tâm Ảnh
chợt nhận ra khí thơ của tráng sĩ ẩn sâu trong những câu chữ, với nhịp điệu của
kẻ lên đường cùng lưỡi kiếm xanh. Ngôn ngữ của ẩn sĩ sao mà chứa chan tình
người với nhiều hình ảnh và âm thanh của bụi trần.
“Bày tỏ II” là sự độc
thoại nội tâm hay cuộc bày tỏ với chính mình: “Để biết mình không là gì cả/ Xin
một đời rêu cỏ an tri!”. Thi nhân cũng là tu sĩ đối diện với tâm không, vậy mà
cõi lòng luôn hướng về phía trần gian, cho dù chỉ một hạt bụi, một vi trần cũng
đã đồng hành cái có: “Tôi chẳng có gì để lại cho em/ khi tôi phủi xác thân /
như phủi một hạt bụi rơi”.
Có ai ngờ ngôn ngữ
của thi nhân ở nơi heo hút miền sơn cước nhưng chứa đầy thi tính, hừng hực một
hạo khí của sự chuyển động bên trong để bộc phát ra thứ ảo giác tiệm cận với sự
thật của hiện hữu. Ngôn từ uyên bác và thâm sâu trong thơ của nhà sư đã thể
hiện phần nào sự tỏ ngộ của một người con Phật.
“Vì giác ngộ, lòng ta cơn gió lạ
Thổi lồng bồng, gác vắng với hiên khuya
Ta lất phất, thói đời cùng thói đạo
Rõ lắm rồi, cỏ rác cũng se sua!”
Những ngọn núi trong
thơ Triều Tâm Ảnh là đỉnh cao cheo leo trong thế giới tâm, chỉ những tâm hồn cô
đơn tận cùng mới trực diện và cảm nghiệm được ngọn núi tâm thiêng liêng ấy. Câu
thơ “Mai mốt đi về, tất thảy hóa thành trăng!” trong bài “Bụi, Trăng và Lửa”
lại một lần nữa khẳng định sự giả hợp mà tác giả đã cảm nghiệm suốt cuộc di trú
của dòng tâm.
Chúng ta đều biết
rằng trăng là một giả tưởng do nhiều yếu tố tạo thành, cơn mộng đẹp của vũ trụ
giúp con người nhận ra đóa hoa của đêm đã giúp thế giới này giảm phần nào tăm
tối, nhưng cái đẹp của sự vĩnh cửu tương đối đó chưa đủ mạnh để thức tỉnh những
cơn cuồng loạn của nhân loại.
Từ giả hợp của sự vật
đến giả hợp của tâm tưởng qua cuộc cảm nghiệm sâu sắc của thi sĩ Triều Tâm Ảnh,
người thơ đã gửi gắm hơi thở của mình quyện vào dòng đạo hạnh hằng mong gửi
chút lực từ bi vào cuộc xoay chuyển uyên nguyên của đại cuộc trước bờ vực hư
vô.
Thơ của Triều Tâm Ảnh
thi sĩ chính là hóa thân của đạo, của sự chuyển động ở tầng thâm sâu giữa mộng
và thực, giữa hiện hữu và ẩn mật,... tất cả những gì mà ngôn từ tô vẽ chỉ là
một giả hợp, hơn ai hết, thi sĩ, tu sĩ ở hòn Vượn là người cảm nghiệm rõ nhất
về vô ngã, về giả tướng và giả hợp.
Có thể hiểu “Bụi,
Trăng và Lửa” chính là các giả hợp, vì mỗi hạt bụi như hoa đốm, chứa cả thế
giới vật chất và ngược lại, cũng như vậy trăng chỉ là sự phản chiếu của ánh
sáng mặt trời và lửa ở nghĩa đen và cả nghĩa bóng khi rực cháy khi là tàn tro
lạnh lẽo, có đó cũng không đó chỉ là giả hợp của vật chất và nhờ khí oxy để
cháy.
Hai câu thơ trong bài
thơ “Bày tỏ IV” cho người đọc cảm được tâm của một nghệ sĩ, tu sĩ luôn hướng về
phía chân trời của đạo, cho dù biết rằng sẽ đối diện với niềm cô đơn cùng cực
và sự vây khốn của thế giới tâm đầy biến loạn, khi khởi lên ý niệm phân biệt:
“Ta quỳ xuống, hoang vu niềm khổ lụy
Gặp trăm đời trong nửa niệm phân ly!”
Thế giới thi ca của
thi sĩ Minh Đức Triều Tâm Ảnh hay có thể gọi hồn thơ của tu sĩ Giới Đức là
những câu chữ xô đẩy đến đỉnh trời của vô tính, nhưng lại thấm đẫm tình người.
Tình yêu của những bước chân dấn thân vào con đường xa hút hình bóng cõi nhân
tình thế thái. Phải chăng đó là trạng thái phân thân giữa thơ và thiền, giữa
trần gian và cõi đạo, để thi nhân phải dứt khoát đoạn tuyệt thế giới của thi
ca, chỉ vì:
“Lửa và bụi lân la hai bờ giấy
...
Trăng thi thiết đã quên lòng giếng cũ”.
Lê Huỳnh Lâm
(*) Những tập thơ tiêu biểu của Minh
Đức Triều Tâm Ảnh: Chèo vỡ sông trăng; Đá trắng chiêm bao; Đóa hồng
vàng cửa Phật; Lửa lạnh non thiêng; Chữ cháy bờ lau, (Nhà xuất bản
Thuận Hóa); Giun dế, hư vô và hạt lửa xanh; Bụi, Trăng và Lửa (Nhà xuất
bản Văn học)…
No comments:
Post a Comment