Wednesday, February 17, 2021

MĐTTA 6

 Khánh Tuế Đại Huynh
Đã bước qua sinh tử
Còn kỷ niệm ngày sinh,
Nghe đất trời vi tiếu
Pháp như thị chơn kinh
Mừng Viên Không Ni
Ngắm chùm hoa tỷ muội
Đoá búp đoá sắc hương,
Liễu mềm tay ni trượng
Phụng hiến nhật nguyệt thường!
(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)

XUÂN TÓC BẠC
Vụng về thảo mấy nét xuân
Viết chi, chi dám bút thần mà chi
Càng già càng muốn vô vi
Chừ xuân tóc bạc, cười khì một phen!
 
ĐẠO TÌNH
(Tặng cụ Phan Trúc Lâm)
Xuân đáo nhân gian,Tết đáo đường
Đất trời óng ả khí thanh dương
Phúc dày trổ lá chào hoan hỷ
Đất rộng dang tay đón cát tường
Nhân ái muôn đời thêu gấm vóc
Đạo tình vạn thuở dệt hoa hương
Nắng vàng ấm áp thềm lan quế
Chim đậu cành vui hót líu lường!
 
HUYỀN KHÔNG XUÂN TỨ
Vui bước du xuân lạc nẻo huyền
Chút tình phương khách, nhớ thiền duyên
Văn chương hưng thế, bừng thanh khí
Đạo lý thông thiên, cảm thánh hiền
Hoa ngát vân phong, thềm tịnh thất
Núi ngời tuyết nguyệt, mái thi hiên
Đường trần ngoảnh lại sương che khuất
Lãng đãng hài Tăng ngỡ bóng tiên!
(Huế, 26/10 -Bính Dần, 1986)
Nhà Thơ Nguyễn
 
SÁNG MÙA XUÂN
Xuân ngát bình minh trên nhánh hoa
Tiếng thơ dâng nắng đến muôn nhà
Cánh đào năm ngoái, tươi mùa thắm
Đóa cúc ngày xưa, đẹp ý xa
Tìm chút mặt trời miền lữ thứ
Soi bao ánh ngọc cõi yên hà
Chén trà an tịnh bên vườn biếc
Khi đóa hoàng mai nở với ta!
Nhà Thơ Ngọc Quế
 
DU XUÂN
Phủi tay trăm chuyện bán mua
Thong dong hạc trắng lên chùa chơi xuân
Thanh u, hoa cảnh tần ngần
Chợt đâu một thoáng tiền thân hiện về
 
VỊNH GÓC ĐÀO
 (Đề thi Xuân)
Bừng bừng sức sống, khí vươn cao
Giữa cõi non xanh, nức cội đào
Hoa khoác áo hồng, thêu bướm lụa
Lộc đơm mắt biếc, ửng trời sao
Bài thơ Thôi Hộ sương mờ đọng
Câu chuyện Lưu Thần gió nhẹ xao
Am cỏ đón Xuân vui chút mộng
Hương tàn, sắc nhạt hóa chiêm bao!
 
AM TRANH GÓC NÚI
(Tặng thầy Chơn Phương)
Mái tranh, góc núi mấy lần Xuân?
Nhàn tịnh, vô vi thật tuyệt trần
Chẳng hỏi, vẫn quên bao tuế nguyệt
Chưa đi, đã hiểu mấy phong vân
Cõi riêng, hoa điểm tranh thiền cảnh
Cốc tĩnh, thơ hòa áng khánh vân
Thanh thản vui Xuân, vô ngại sự
Am không, tựa án, gió hương trầm!
 
PHỤNG HÒA XUÂN
 (Tặng một Cành Tuyết phương trời xa)
Cành tuyết phương trời sắc trắng pha
Thi hương mấy độ ngát phương nhà
Biển xưa, sen nở, trăng tìm bút
Am cũ, xuân về, đá vẽ hoa
Ý hạt sương trong, chồi quế ngọc
Mắt màu nắng mới, nụ mai già
Én trao cánh thiếp, tung vô tận
Thanh nhã niềm vui, tứ phụng hòa!
(Cuối Đông Quý Dậu)
 
CẢM TẠ
Cảm tạ đất trời, cảm tạ Xuân
Cảm hiền quân tử, quý tri âm
Cảm thời đông giá, mây cao lãnh
Cảm tiết xuân ôn, khí cố nhân
Cảm đá, cảm gai, chân đại trượng
Cảm thơ, cảm bút, khí lăng vân!
Cảm người, cảm vật, tình muôn loại
Cảm tạ vui buồn, gió thế tâm!
 
CÀNH MAI
Câu thơ đã nở cành mai
Phong hương, ướp nhụy tặng ai đời này
Nứt chồi đá, ngạo trời mây
Vô danh phụng hiến biết hay nhân hoàn?
 
HƯ KHÔNG VỖ ĐÁ
(Tặng thầy Trí Tựu)
Tình đạo, tình trà, tự cảm Xuân
Thõng tay nhẹ hẫng cuộc phong trần
Áo chàm cửa Phật đeo tinh đẩu
Nón cỏ sân thiền đội bối vân
Nhàn nhã dạo vườn, hoa cỏ tĩnh
Thung dung tiếp khách, tuyết sương thâm
Hư không vỗ đá lời vô tận
Chợt nụ nguyên tiêu, tuyết trăng ngần!
 
ĐỐI
Mấy cọng cỏ thơm, Xuân đạm nhã
Vài mầm mai lão, Tết đan thanh
 
CÂU ĐỐI
Chúc Tết hạo nhiên, tùng trúc cốt
Mừng Xuân văn vẻ, quế lan hương
 
XUÂN SƠN PHƯƠNG  (Thuận nghịch độc)
Mây trời nhẹ thoáng cảnh Sơn Phương
Phật xứ vui nhàn khí tỏa hương
Cây lá hoa thơ tâm tĩnh tại
Sách đèn kinh pháp trí an thường
Bay vờn khói tía tùng khêu bút
Động khẽ trăng xanh trúc viết chương
Đầy chữ đốm lan sân cỏ ướt
Tây hiên gió lạnh đá xao sương!
 
XUÂN
Một bức thơ, một bức trăng
Bình hoa xuân, cộng tiểu tăng thanh nhàn
Năm qua công việc bộn bàng
Năm nay, chữ ướt dặm hàng chưa khô!
 
NHẤT ĐÓA XUÂN
Xuống núi gậy thiền đã mấy Xuân?
Sắc không hóa ngọc, biếc vô ngần
Qua sông đò nặng, bền cao chí
Gánh nghiệp đời đau, vững đạo tâm
Biển bạc mênh mông, thuyền bát-nhã
Lòng son bát ngát, áng từ vân
Lãn Ông, Tuệ Tĩnh, tình quy Phật
Muôn thuở nụ cười, nhất đóa Xuân!
Sư Tuệ Tâm
 
CÂU ĐỐI
Tiễn gió chướng, mưa thâm; phủi hoa đốm mê lầm, chào cựu Tuế
Tiếp mây hiền, nắng nhẹ; hòa niềm vui lặng lẽ, đón tân Xuân
 
THIỆP XUÂN
Chúc tết, chúc Xuân rộn đất trời!
Chúc người văn vẻ, phúc ngàn nơi
Chúc xanh nhân ái vào non thẳm
Chúc thắm đạo tình đến biển khơi
Chúc cội bồ-đề cành mãi lớn
Chúc dòng sanh tử nước dần vơi
Chúc đá lăn đồi, rêu hóa ngọc
Cùng nghe chim tấu nhạc hòa vui!
 
XUÂN THANH
Xuân báo tin vui cửa mọi nhà
Đất trời nắng mới giọt vàng sa
Đào xưa hào phóng bung trăm nụ
Mai cũ ân cần rắc vạn hoa
Trải áo Yên Hà mời bạn lữ
Choàng vai Phương Thảo tiếp thi ca
Cửa không, thiền ý, Xuân vô tận
Tình dẫu thanh trong, tứ đậm đà!
 
NHẶT CỎ
Đầu năm, nhặt cỏ vườn trăng
Câu thơ thiền đạo mầm măng nhú chồi
Xanh non màu mắt xuân vui
Bút tâm vừa chạm, đất trời nhẹ rung.
 
THẮP THƠ TRỪ TỊCH
Dâng tặng Đại Huynh
Bút chuyển tình xuân chở đạo vàng
Nửa đêm trừ tịch nhớ mang mang
Chân trời, huynh rải lòng vô nhiễm
Góc biển, đệ nuôi lửa hữu hằng
Đại nguyện khiến hiền nhân xuống núi
Tiểu tâm xui ác hữu chuồn hang
Dù cho nắng quái đùn phương trượng
Cổ thụ che chung vẫn một tàn!
(𝘏𝘒𝘓𝘢̆𝘯𝘨 𝘊𝘰̂, 1976)
 
LÀNH THAY!
Tuổi già, góc am nhỏ
Bụi cát, phủi xa khơi!
Nhìn cây, nghe lá thở
Ngắm núi, thấy trăng cười
Nói nhiều, câu chữ rụng!
Bàn lắm, nghĩa kinh rơi!
À xuân! Ừ xuân nhỉ!
Lành thay! Tóc bạc rồi!
 
CÂU ĐỐI 1
Tiễn Đông giá rét, đại chúng sum vầy, hương giới hạnh
Chào Tết bình an, lâm viên tươi thắm, sắc thiền môn
 
CÂU ĐỐI 2
Mở trí thênh thang, mai trắng mai vàng, xem thế sự
Giữ tâm vắng lặng, đào phai đào thắm, ngắm nhân gian
 
CÂU ĐỐI
khóm địa lan tháng chạp
sâu kín tỏa u hương
bày mực đen giấy đỏ
câu đối phụng huyên đường
 
XUÂN RỪNG THIỀN
Rừng thiền diện mục thị thường thôi!
Đông khứ, xuân lai, vận tự hồi!
Hang đá, đùn len làn khói núi
Triền non, vun thả đám mây trời
Nắng mưa biến đổi theo mùa tiết
Vui khổ vần xoay đúng nghiệp thời
Hoa nẩy nụ mầm, ươm biếc thắm
Cây vươn cành nhánh, hiến xanh tươi
Bài thơ thuận pháp bày câu chữ
Nét bút duyên tâm mở ý lời
Trí giả, hiền nhân trăm dặm lữ
Hoát nhiên tao ngộ cố hương rồi!
 
CÀNH XUÂN
Nắng mưa nào khép bóng thời gian
Ngày tháng theo xuân nở đóa vàng
Với cánh hương dâng hồn nắng cũ
Cho mùa cỏ ngát tiếng thơ vang
Cành lê nguyên đán mây nào nhớ
Chiếc én hoài hương mộng chẳng tàn
Như đã cùng xuân quen thuở trước
Nụ cười nhẹ thoảng gấm hoa đan!
 
LAN THẠCH
(Tặng sư Hộ Tịnh)
Xa vắng bạn già, xuân thiếu ai!
Thì thơ, thiệp thảo, gởi nhau chơi
Bâng khuâng vườn cũ, tình lan thạch
Man mác hiên ngoài, nghĩa trúc mai
Đã uống giọt sương, trời phạm hạnh
Đành đeo hạt bụi, gót Như Lai
Chơn vọng, thị phi, con giáp khổ!
Hương trà sơn cốc một mình vui!
 
THƠ VÀ ĐẠO
Chùa Huyền Không Sơn Thượng
Rằm Tháng Chạp - Canh Tý (27/1/2021)
Nói chi trà và đạo
Khát cứ việc uống thôi
Nói thêm trà với đạo
Đầu thượng trước đầu rồi
(HT. Viên Minh)
 
THẦY
Con trở về đây giữa gió sương
Vòng tay rộng mở chứa yêu thương,
Tâm thiền mát dịu thơm lòng núi
Lời đạo từ hoà ngát ánh dương,
Năm rộng tháng dài soi chỉ lối
Nắng vàng đông tía dẫn đưa đường,
Thân gày gánh cả vai cha - mẹ
Thảo mộc bên đồi hưởng tựa nương!
(Sư Chánh Đức)
 
THẦY
Thầy, tuyết điểm hoa rợp mái đầu
Thầy, sương tuế nguyệt lướt thiên thâu
Thầy nâng con chữ hoà chân lý
Thầy chuyển ý thơ hoá đạo mầu
Thầy tợ vầng trăng trong vực tối
Thầy là ngọn đuốc chốn hang sâu
Thầy, thân bách thụ hoài che chở
Thầy, bát - nhã thuyền vượt bể dâu.
(Sư Giác Hạnh)
 
Qua sông buông thả tay chèo,
Ngắm rong phiêu bạt, ngắm bèo nở hoa!
(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
 
1. ĐẤT THƠM
Du xuân
lượm hạt sương rừng
Thấy bao tiền kiếp
chưa từng vỡ tan
Cõi về
mây trắng thênh thang
Cỏ thơm đất cũ,
bạn vàng muôn xưa
 
2. KHUNG TRỜI XUÂN
(Tặng Pháp đệ Tuệ Tâm)
Trượng mây ngày xuống núi
Áo trăng vàng qua sông
Lui tới gót chân không
Khung trời xuân viên mãn!
 
3. XUÂN - THƯ PHÁP
Bút quậy mãi hoài lông rụng hết
Gỗ tre trơ cán, mực trườn đau
Nét ngang hóa đá, tình trơn nhẫy
Sổ dọc thành gai, nghĩa tượt nhàu
Danh lợi bơi sông, thuyền thủng đáy
Tứ từ lặn suối, cá đùa câu!
Sương rừng rơi giọt, khe gom lại
Xuân viết non cao, chữ bạc đầu!
 
4. TỪ TRONG CÕI
Mưa phùn lất phất ngày xuân
Tâm thiền bảng lảng mà gần mà xa
Thơ từ trong cõi đi ra
Chợt đâu đụng bóng Đạt Ma cuối trời
(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
 
“Bây giờ hạt bụi hoá trăng,
Có không duyên cớ chẳng ngăn cuộc về!”
 
“Bút vẫy rừng không, mây gió bâng khuâng, trăng sáng chữ
Thơ chơi lũng vắng, khói sương lãng đãng, đá ngời văn”
 
1. VÔ ÚY
Chẳng sợ hãi lũ cuồng,
Chẳng nề chi dòng xoáy;
Pháp, giọt nước đầu nguồn,
Rót vào bình Bất Tử!
FEAR NOT
Fear not the deranged water torrent,
Never mind the raged flooding currents;
The Dhamma is the water from the headstream,
Pouring into the jug of immortality!
 
2. NGẬP LỤT
Nước tuôn từ núi cũ,
Chảy tràn các hồ ao;
Cũng vậy, vô minh bổn,
Ngập lụt cả trần lao.
FLOODING
Water rushes down from old mountains,
Overflowing lakes and ponds, near and far;
Likewise, fundamental ignorance,
Is inundating the whole Saha!
 
3. THOÁT
Bước ra khỏi các ái,
Cho dẫu kiết tuỳ miên;
Xói lở cả thung triền,
Tuệ đỉnh cao, an tại!
FREE
Stepping out of all kinds of craving,
Despite the underlying fetters
Eroding hillsides and valleys,
Upon the wisdom summit, one is at ease!
 
4. DỘT, THẤM!
Nhà ta xây kiên cố,
Nước vẫn dột đôi nơi;
Tạo tác hữu vi rồi,
Phải ở chung thấm, lậu!
SEEP, SOAK!
No matter how strong the house is,
Water will seep in here and there;
Subject to Saṅkhāra once created,
One resides with its soaking, the remainder!
 
5. LỢP!
Lợp tranh rồi lợp ngói,
Nhiều tấm chắn bên trong;
Nhà ta vẫn rỉ lậu,
Là Sự Thật trần hồng!
ROOFING
Roofed over with thatch and tiles,
With many layers of shields inside,
Yet the house is still leaking;
 
43- Cho dù gõ chữ trăm năm,
Câu kinh tụt lưỡi chương văn mắt ghèn!
44- Thềm xuân ngắm hạt móc mai,
Bóng ta lấp lánh giống ai bạc đầu!
45- Chữ đau thì nghĩa càng đau,
Thương mình thương bạn với nhau ngôn hòa!
46- Công án thiền công án thơ,
Nhện sa tròng mắt bất ngờ vụt bay
47- Tung đốm lửa vào câu thơ,
Cháy bùng sáng tạo giấc mơ vượt lề!
48- Con chim thuyết pháp khe sâu,
Có chàng du tử thả sầu ngồi nghe!
 

No comments:

Post a Comment

Thơ Đạo 3

     Từ nguyên thủy rừng già dòng suối chảy     Bưởi hoa vườn mưa tạnh ửng phù dung     Tình đá tượng vẫn còn nguyên vẹn lắm     Gióng hồi c...