Hơn năm mươi tuổi đời
Gần ba mươi tuổi đạo
Cô ơi!
Nhớ mà tiếc, nghĩ mà thương
Gấp chi một bước vô thường, vội không?
Chọn áo trắng, không đêm hồng
Tuổi xanh lại cứ nẻo Không mà về
Am nghèo mái lá chùa quê
Ốp nhang, chén gạo mấy bề lo toan
Này nghĩa xóm, nọ tình làng
Mấy mươi năm đó đảm đang đạo đời
Rồi không đợi tiễn hay mời
Đủ duyên thì đến, việc rồi lại đi
Một đời học hạnh xả ly
Đứt hơi, ngó lại còn gì chưa buông
Chuyện đời chua ngọt, ghét thương
Nữ thân mà lại can trường như nam
Đẹp lành nhường hết cho em
Thiệt thòi phần chị bớt thêm được gì
Đức tu đáng mặt trưởng ni
Giờ xuôi tay để bỏ đi một chiều
Từ giờ gió sớm hắt hiu
Nắng trưa, trăng tối, mưa chiều còn ai
Tử sinh biền biệt dặm dài
Mong cô cả rộng đường bay về trời
Hiên chùa mấy giọt mưa rơi
Cũng là chừng ấy lòng người tiễn cô
Khói hương rồi cũng hư vô
Tấm lòng thương tiếc cơ hồ chẳng tan ...
Toại Khanh, từ Úc Châu ngày 3 tháng 3 năm 2019
Thế đấy rong rêu thời trẻ dại
Mươi năm lữ khách giữa trần gian
Thế cuộc khuya nào ta ghé lại
Tình người ghẻ lạnh dúm tro than
Gió lộng y vàng ta lưu lạc
Gót mòn biết mấy nẻo phù vân
Ta đi như gió về sa mạc
Vạn lý giang hồ vô cố nhân
Bình bát ngậm ngùi quà khất thực
Có gì? Ngoài những thứ thị phi
Cơm bánh chợ đời…thường mặn đắng
Nếu chẳng duyên lành quen biết chi
Gió lạnh xứ người chừng đã thắm
Ta về đốt lửa giữa mù sương
Lần tay bóng tối ngồi tính nhẩm
Thôi lại một mùa xuân tha hương
Ta đã có gì? Băm mấy tuổi
Đôi bàn tay trắng, tương lai đen
Một tuổi trẻ buồn nhiều bóng tối
Với những nỗi đời…đang cố quên
Mà sao cũng được, xin quên hết
Đời đón xuân về, ta ráng xuân
Giao thừa khép cửa ngồi thắp nến
Nhó chiếc bóng mình, gọi tri âm
KHÓC THƯƠNG SƯ THIỆN MINH
người
ngang đời như cánh vạc hồ khuya
một sáng người đi
không hẹn buổi về
sóng nước cù lao cứ dập duềnh tức tưởi
đây đó vườn quê
cành cam gốc bưởi
những chuyến đò chiều
đợi hoài
viễn khách vẫn mù tăm
mươi năm xa quê
sao quên được chỗ nằm
tuổi ấu thơ mãi thơm mùi khói rạ
tóc xanh viễn phương
đời nâu sòng ôm chí cả
tuổi ngọc về thành
đạo nghiệp dựng tòng lâm
Hăm bảy năm một kiếp tơ tằm
dịch sách, viết kinh
dựng chùa, xây thiền viện
Từ Ấn Độ, Phần Lan sang đất Miến
độ người, nuôi tăng
cho Phật pháp mai sau
Một chiếc xuồng con
giữa mấy trận ba đào
vẫn một dạ... vững tay chèo chống
ai hay một chiều
thuyền nan sông rộng
Rau mác lên bờ
cho bìm bịp bay xa
bỏ lại đệ huynh
dang dở một khay trà
Không biệt mà đi
tim hãy còn bao hoài bão
sự nghiệp ở đời
dĩ nhiên đều hư ảo
chỉ thiên thu là mỗi trái tim người
sư đi để lại nụ cười
tháng năm còn đó bóng người cuối sông
mai kia về đất Vĩnh Long
sớm chiều nhìn nước lớn ròng nhớ nhau !
Waldshut 22 tháng 7. 2018
Toại Khanh
KỶ VẬT CHO EM
Toại Khanh
Tôi không nhớ đã đọc ở
đâu câu nói này: Nếu không có gì quý giá để lại cho đời, thì ít
nhất cũng đừng để lại một điều gì tệ hại. Khoảng trống đó cũng có thể gọi
là một thứ di sản không tệ. Tôi nhớ đến câu nói đó, chỉ vì chiều nay
đọc thấy trên Internet một tin nhỏ mà thú vị: Các nhà khoa học Anh quốc
vừa phát minh một kiểu lò hỏa táng, được đặt tên Resomator, không khói,
không tạo ra bất cứ khí độc nào có hại cho môi trường thiên
nhiên và sức khỏe con người. Vậy là kể từ bây giờ, với kiểu
lò hỏa táng đó, ít nhất thiên hạ sau khi nhắm mắt cũng
không bắt bầu khí quyển này gánh thêm một chút của nợ nào như xưa giờ nữa.
Nhưng đó chỉ là cho
phần xác. Còn cái khoản phần hồn nữa chứ. Giá người ta có thể chế tạo
thêm một kiểu lò tương tự cho những lầm lỗi của chúng
sinh thì hay biết mấy. Một chính khách điên rồ sau khi xuôi tay
sẽ vĩnh viễn biến mất cùng với cái học thuyết chính trị bậy
bạ của mình. Một giáo chủ tà phái sẽ đem theo vào lòng đất
những rao giảng lầm lỗi của mình. Và bất cứ một ý tưởng độc
hại nào trên đời này cũng đều đi theo kẻ đã khai sinh nó mà chìm
vào hư vô. Với kiểu lò hỏa táng đó, lịch sử thế
giới sẽ không nhuốm máu lệ như bây giờ. Chúng ta đang rất cần
đến một kiểu lò hỏa táng không khói cho những lỗi
lầm của nhân loại.
Ai dám bảo mình bé mọn
không đủ sức để lại một ảnh hưởng nào cho nhân thế,
rồi thì muốn làm gì cũng được? Trong Giáo Lý Duyên
Khởi của Phật giáo, không một thứ gì trên đời này là bé nhỏ đến mức
không thể tạo ra những tác động. Anh vô danh, nhưng chuyện anh làm,
điều anh nói, đề tài anh suy tư... hoàn toàn có thể để lại
một hậu quả khôn lường cho thế giới. Có biết bao trẻ
vị thành niên sa đoạ, bạo lực và tự tử chỉ vì nghe thấy ai đó nhắc
đến những chuyện ấy. Và kẻ khơi mào cho những thảm cảnh ấy thường khi chỉ là
một người chẳng tiếng tăm.
Một tuổi
trẻ vô tâm tung tăng cõi tình trường và để lại một
cuộc tình buồn cho ai đó. Một tay gian thương chỉ nghĩ đến túi tiền
của mình rồi thương vụ tội lỗi nào cũng làm. Một nguyên
thủ quốc gia coi trọng chuyện nhà hơn chuyện nước. Một cá
nhân ích kỷ chỉ nghĩ đến tự ái bản thân mà quên
mất đại cuộc thiên hạ... Toàn bộ bọn họ đều để lại
cho nhân gian những di sản buồn, những dấu vết không nên có
sau ngày mình đi. Ta có thể không tin chuyện tái sinh luân
hồi, nhưng ít gì cũng có thể hiểu được cái lẽ đời cụ thể này:
Nếu tiền nhân ngày xưa đã sống bạt mạng chẳng kể gì đám hậu tấn
thì thế giới hôm nay, có ta trong đó, đã ra sao rồi?
Tôi là một tu
sĩ Phật giáo, nhưng ngoài Tam Bảo và những thiện hữu tri
thức đồng đạo, tôi còn mang ơn biết bao người thiên
hạ vô thần hay ngoại giáo, cho dù họ chưa bao giờ biết
đến tôi. Tôi học họ những câu nói, những cách sống, cách nghĩ.
Tôi mắc nợ họ, vì đó là những di sản mà tôi ngẫu
nhiên thừa kế ngon lành.
Người ta nói một chiếc
lá lìa cành không hẳn là đã chấm hết. Nó có thể mục nát và thành đất
để nuôi dưỡng những mầm sống khác. Cả cái gọi là mây nước mù sương
trên hành tinh này cũng đều là từng cuộc tuần hoàn của những di
sản, những kỷ vật, những thứ đời trước để lại và những thừa tiếp của đời
sau.
Cũng như chuyện tụi
mình vậy đó. Em đi rồi, nhưng kỷ niệm về chuyện mình ngày đó sẽ mãi hoài theo
tôi suốt kiếp. Đó cũng là thứ gia tài em để lại cho tôi. Ngày mai rồi
cũng đến lượt tôi lên đường, và phía sau cuộc đời mình, tôi có biết
mình đã để lại gì cho người khác: Một câu nói làm ai đó tổn thương,
một ý tưởng xây dựng tình người, một nụ cười cho kẻ nhớ lại hay
giọt nước mắt cho người nhắc tới? Tất thảy đều là những di sản, những gì
ta gửi lại trần gian này, nơi mình đã một lần đi qua...
Ta có nhiều cách nói
về những kiểu sống đời. Một trong số đó là khả năng truyền thừa xứng
đáng những giá trị: Nhận cái xứng đáng và để lại những cái xứng đáng. Nếu
chẳng làm nổi chuyện đó, thì thôi, xin cứ ra đi như một cơn gió lành. Đời sẽ
chẳng phải phiền lòng thu dọn bất cứ rác rưởi nào sau lưng ta. Kẻ
sống được vậy ít gì cũng đáng được gọi là đệ nhị hiền giả.
Mong thay!
Spring, Summer, Fall,
Winter... And Spring
Toại Khanh
Buổi chiều ghé ngang bưu điện, ngoài những thư từ tạp nhạp, còn có một gói giấy
mỏng như cuốn sách, không biết của ai gửi. Tôi quẳng tất cả vào chiếc thùng
giấy sau xe. Trên đường về, có một cú phone đường dài, thì ra anh Dũng,
một người quen đã lâu không gặp mặt. Anh bảo vừa gửi tôi một cuốn
phim và hỏi đã nhận được chưa. Anh nói lúc xem phim cứ nhớ đến tôi và bất chợt
muốn nghe tôi chia sẻ đôi điều gì đó.
Tôi không
phải tín đồ của điện ảnh, chẳng mấy khi xem, nói gì là nghiện.
Nhưng lúc xem xong cuốn phim đó, xem và hiểu theo cách riêng của mình, chẳng
hiểu sao cứ bâng khuâng mấy giờ liền...
Cuốn phim của Hàn
Quốc, cái tựa thậm thượt và nghe phát nản: Spring, Summer, Fall,
Winter... and Spring. Và đúng như cái tựa, chuyện đời của các nhân vật
trong phim cứ từng bước phù trầm đổi thay qua từng dấu mốc thời
gian hệt như bốn mùa trong năm. Cả cuốn phim cơ hồ chỉ nói đến hai người,
mà nổi bật có lẽ chính là nó!
Nó hồn
nhiên lớn khôn như một hòn cuội, một cánh bướm, một con nhái bén bên
hồ. Sư phụ là tất cả đối với nó, và chỗ ở của hai thầy trò có lẽ thơ
mộng đáng vào bậc nhất thế giới: Một am gỗ xinh
xắn và cổ kính nằm giữa hồ nước mênh mông, bốn bề là cây
rừng và đá núi ([1]).
Nó nghịch
ngợm đáo để, nhưng cũng nhiều ngộ tánh. Có lẽ đó là lý
do để sư phụ xem nó như chút bận lòng của ông giữa cuộc phù
sinh nhất thiết giai không này. Nó lầm lỗi, ông phạt nó, dạy nó.
Nó khóc một, ông đau mười, nhưng ông vui vì nó hiểu chuyện nhanh lắm và cũng
giàu lòng nhân. Hai cái đó cộng lại cũng đủ biến nó thành ông thầy tu rồi
còn gì.
Dòng đời nhanh và gọn
như từng mùa mưa nắng trong cõi nhân gian. Thoắt cái, cậu bé kháu khỉnh
ngày nào bây giờ đã ra một chàng trai trẻ vạm vỡ, khôi ngô, dù vẫn tiếp
tục hồn nhiên tắm gội trong suối nguồn đạo tình thâm hậu
của người sư phụ mà mái đầu giờ đã pha sương. Một chuyện nhỏ nhưng
lại là một biến cố lớn đã xảy đến với chốn thanh tu tịch mịch này vào
một ngày có khách đàn việt ghé chân.
Họ là hai
người phụ nữ, một khỏe một bệnh. Sau cuộc thương lượng đơn giản,
cô gái mắc trọng bệnh kia được gửi lại chùa để uống thuốc núi. Cô ở
lại một mình và sau dăm ngày lạ lẫm với nếp sống tẻ
nhạt lặng lẽ ở đây, cô đã tìm thấy một niềm vui mới. Vị sư
già xem cô như một đứa con, và chàng thanh niên vô tư lự kia đã đem
cái hồn hậu của núi rừng mà đối xử với cô như một cô em gái. Thế
rồi tiếp nối theo đó là những ngày vui bất tận của hai người. Con
thuyền nhỏ của chàng đã đưa nàng đến từng bờ cây, hốc đá, nơi đã một thời
là thế giới tuổi thơ của chàng, để cùng nghe chim hót, nước
chảy.
Chàng lần đầu gặp mặt
và sống gần một người không phải sư phụ, và đó lại là một thiếu
nữ có nhiều cá tánh. Chàng đã chết ngất trong ánh mắt, nụ cười và cả giọng
nói của người bạn mới. Đổi lại, cơn bệnh trầm kha của nàng đã bay biến đâu mất,
và thay vào đó là một sức sống mãnh liệt với một thứ ân tình khó gọi
tên, đã kín đáo nẩy mầm với ngay người bạn khác phái vẫn gặp gỡ, rong
chơi với nhau mỗi ngày. Vào một chiều nắng quái bên hồ, giữa khung
cảnh trời nước bao la gợi cảm, họ đã cuồng nhiệt yêu nhau
ngấu nghiến, quên mất người sư phụ bên kia hồ đang sửa soạn
buổi kinh chiều.
Chuyện vụng
trộm giữa hai người dĩ nhiên không thể giữ kín mãi.
Hôm đó, sau một cuộc vui cháy bỏng ngay trên con thuyền nhỏ giữa hồ,
hai cô cậu đã hồn nhiên ôm nhau ngủ say, bỏ mặc sóng nước vô tình
muốn đưa đẩy về đâu cũng được. Chẳng biết cơn gió quái ác nào đã xô con thuyền
tự trôi về phía am. Và người sư phụ đã nhìn thấy cảnh
tượng mà ông tuyệt không ngờ được. Ông đã gọi hai người đến
để hỏi thăm bệnh trạng của nàng, và sáng hôm sau đã buộc nàng rời am
về phố. Nàng đã ra đi trong cái dõi nhìn đau đớn của chàng.
Đạo tâm của
gã tiểu tăng bây giờ chỉ còn là một bọt nước sẵn sàng vỡ tan.
Hắn đã từ một phút rong chơi bến tục mà quên mất nẻo về bờ giác.
Trách gì người Trung Hoa xưa giờ vẫn truyền khẩu câu nói
tiểu Hòa thượng miệng niệm Phật mà lòng không có Phật. Phật
vẫn ngồi đấy thiêng liêng trong ánh nến của ngôi cổ am, nhưng trong
mắt gã tiểu tăng kia, giờ chỉ còn một bóng hồng áo lục đã khuất nẻo
từ lâu, mà đến tận buổi khuya này, chừng như vẫn còn lẫn khuất đâu đây với một
làn hương nhẹ nhàng mộng mị. Rạng sáng hôm sau, lặng lẽ rời am với
bức tượng Phật cổ trên tay như chút vốn liếng trên đường
đời trước mặt, gã tiểu tăng đã bỏ am, bỏ thầy lên
đường không một lời chào. Gã đi theo tiếng gọi của Vô
minh.
Nhưng tất cả những
tình tiết nhiều kịch tính từ đầu bài đến đây, thực ra, chỉ là cái nền cho
một nội dung nằm ngoài mọi dự tưởng.
Năm tháng lại trôi đi
như từng mùa xuân thu. Người sư phụ ngày nào giờ đã là một
lão tăng quắc thước. Một chân nhân thâm hậu đạo lực và
một cụ già hom hem hẩm hiu – cùng lúc tồn tại trong
một hình hài còm cõi già yếu đó. Ông vẫn sáng sáng chèo thuyền vào
xóm hóa duyên, lặng lẽ mong manh trên con thuyền nhỏ giữa
hồ như một cái bóng câm lặng. Sáng hôm đó, mở gói giấy báo đựng bánh khất
thực để chuẩn bị độ trai, ông bất chợt đọc được lệnh truy nã của nhà đương
cuộc đối với một hung thủ sát nhân. Tin đăng kèm ảnh. Ông lặng lẽ đưa
mắt nhìn ra mặt hồ mênh mông, như để cố nhớ lại khuôn mặt bầu bĩnh
của cậu đệ tử bé xíu năm nào. Ông thấy hết, biết hết, nhưng không sao
đổi khác chuyện đời.
Rồi đúng như nhà
sư già đã định liệu, hắn đã trở về. Gã đệ tử vô hạnh
kia đã trở về ngôi cổ am để gặp ông và mang trả lại thầy bức tượng
Phật ngày nào. Ông hỏi chuyện, hắn khóc như đứa trẻ và trả
lời không giấu diếm. Bỏ chùa ra đi ngày ấy, hắn đã tìm gặp được nàng
và lấy nhau hạnh phúc. Nhưng cái hồn hậu, đơn bạc của núi
rừng đã không cho hắn biết được cái mặt trái nghiệt ngã của chợ đời,
khi hắn thật ra không có được những gì nàng muốn. Tình phai rồi tình phụ, nàng
bỏ hắn để theo một người khác. Yêu cho nhiều để hận cũng lắm, hắn giết nàng rồi
tìm về với sư phụ như một phản ứng tự nhiên của đứa bé
nhớ mẹ.
Bây giờ hắn
đã trở về, đang ngồi đó đau đớn trước mặt ông. Chiều nay
hắn khóc vì đã giết nàng, hận nàng, như ngày xưa hắn đã từng khóc vì
yêu nàng, xa nàng. Nhà sư già đã lặng lẽ và kiên
nhẫn xoa dịu những cơn bồng bột ngu khờ của hắn như vẫn xem hắn bé
bỏng như thuở nào. Ông biết tất cả những gì phải đến nhưng không thể sửa được
chuyện đời. Ông chỉ có tấm lòng và tận lực, thế thôi. Ông đã nuôi hắn từ bé,
nhìn hắn lớn khôn và vụng dại. Trước sau, với hắn, ông như một người mẹ
già góc núi: Cưu mang, đỡ nâng, tha thứ và chờ đợi. Bao năm qua
ông chẳng phải vẫn đợi chờ ngày hắn trở về đó sao. Chỉ vì
ông hiểu, ông biết, và ông có cõi lòng một bà mẹ.
Như đã đọc được một
tương lai nào đó, ông lặng lẽ pha mực rồi khẽ khàng chép lại từng chữ
bài Bát-nhã Tâm Kinh ngay trên khuôn sân bằng gỗ của ngôi cổ am, và
vẫn bằng thứ khẩu lệnh nghiêm khắc ngày nào, ông bắt hắn dùng chính
con dao đã gây án kia để khắc lại từng chữ đại tự mà ông vừa phóng
bút trên sân. Hắn khắc chưa xong chục chữ, người ta đến đọc lệnh bắt. Nhà
sư già bình thản như không, ông nghiêm trang đề nghị họ hãy
đợi hắn khắc xong bài Tâm Kinh, như lời ông bảo đảm, chỉ một đêm
thôi. Thời gian chờ đợi đó của mọi người, có lẽ là một trong
những giây khắc đẹp nhất trong phim. Đẹp và thật nhiều ý nghĩa.
Sáng hôm sau hắn bị áp
giải lên đường và bắt đầu những ngày tù tội. Thời gian trôi
đi bao lâu không ai nói được, nhưng rồi gì cũng qua. Mùa đông năm
kia, có một viễn khách phong trần ghé về cổ am.
Khách bồi
hồi bước qua mặt nước hồ giờ đã đóng băng, và trước sau cổ am vắng
ngắt như tờ. Nhìn ra mặt hồ bát ngát, khách chết điếng khi nhìn thấy xác
con thuyền xưa đang khuất trong băng giá với những vết lửa cháy nham
nhở dở dang. Khách chắp tay cúi đầu như cố hình
dung một chuyện cũ. Ngày đó, nhà sư già đã âm thầm hóa
thân ngay trên con thuyền với một mồi lửa ngay sau lúc tiễn
biệt đứa học trò trên sân.
Vậy là phút cuối, hắn
cũng đã trở về. Có điều là lần trở về muộn màng, hắn về cho
chính hắn. Sư phụ đã không còn nữa. Hắn quyết định lớn khôn
lần nữa trước vong linh của người sư phụ mà hắn không còn cơ
hội gặp lại, dù đâu đó quanh quẩn trong ngôi cổ am lúc nào cũng
có một con rắn lặng lẽ nhìn hắn như chứng minh, như chia sẻ và
cùng vui buồn. Sư phụ đấy chăng?
Hắn đã quay
lại con đường mà ngày xưa hắn chưa từng bước đi, dù nó luôn
thuộc về hắn. Hắn trần trụi phơi mình trong băng tuyết để tạc tượng, luyện
công và sớm chiều hai buổi tụng niệm, như thể không còn kịp nữa.
Hắn đi tìm mình, và cũng để gặp lại bóng hình của người sư phụ tình
thâm tợ hải. Từng mẩu nến khuya, những tiếng mõ canh tàn hay trong chiều
muộn đã từng phút giây đưa hắn trở về ngôi nhà ấu thơ với tất cả niềm
nỗi thống hối, bùng vỡ.
Và giai đoạn
cuối cùng của cuộc trở về ấy đã đến lúc hoàn mãn. Trong một buổi
kinh khuya hắn bỗng nghe tiếng người gọi cửa. Chút bụi trầm luân đã
rớt xuống bên hiên cổ am để đưa hắn lại cuối đường. Người thiếu phụ với đứa bé
mủm mỉm trên tay đã tìm đến chùa giữa một đêm tuyết lạnh. Không sao nhìn thấy
khuôn mặt của nàng. Ở đó lúc nào cũng là một tấm lụa mỏng màu tím. Nàng là ai?
Hắn tò mò muốn biết nhưng đành chịu. Lo cho mẹ con nàng một chỗ nằm
tạm trong cổ am, một bên bàn Phật, hắn không biết phải làm gì hơn. Chỉ còn biết
nhìn nàng và nghe nàng khóc. Giá còn sư phụ!
Sáng hôm sau, nghe
tiếng trẻ con khóc bên ngoài, hắn chạy vội ra sân chùa. Trên mặt nước hồ giờ đã
thành băng ấy, đứa bé không mẹ đang từng bước bò về phía cổng, nơi hắn đã khoét
băng làm một giếng nước dùng qua mùa đông.
Hắn kéo cái xác người
lên khỏi giếng. Người thiếu phụ đêm qua đã lọt chân xuống đây khi muốn bỏ con
lại cổ am và một mình lẻn đi trong khuya. Đến bây giờ thì tấm lụa che
mặt nàng đã có thể gỡ xuống. Hắn đã thấy gì, đó vẫn là một ẩn số của câu
chuyện.
Chỉ trong một tích
tắc, câu chuyện ấu thơ của hắn từ mấy mươi năm trước bất ngờ sống dậy
mãnh liệt với từng chi tiết nhỏ. Ngày đó thằng bé trong cổ am đã trốn
thầy vào núi xuống hồ rong chơi. Như điềm báo của một định nghiệp,
nó đặc biệt thích thú trò chơi cột đá vào bất cứ con gì bắt được
để xem con vật phải vất vả ra sao mà sống còn với một gánh
nặng quá sức mình. Sư phụ đã phạt thằng bé đeo một hòn đá
nặng trên lưng để hiểu được nó đã làm gì trên chúng sinh khác. Ngày
ấy, trong tâm tưởng một thằng bé, đó chỉ là một bài học về
hạnh từ bi. Nó đã biết khóc khi không kịp cứu sống con rắn đã bị
nó cột đá. Nó cứ tưởng suốt đời mình sẽ không bao giờ tái
phạm trò chơi độc ác đó nữa. Nhưng ngày trưởng thành, biết
yêu biết ghét, nó đã làm ngược lại.
Hắn lạnh người khi
thấy rõ mình đã cột đá vào không biết bao người. Hai người thân thương nhất
trong cuộc đời hắn đã phải vì hắn mà oằn lưng với những hòn đá nặng
chết người. Lẽ ra hắn chỉ nên để mọi người, kể cả chính hắn, cùng
được thanh thản nhẹ nhàng mà đi. Nhưng tất cả đều ngược lại. Bây
giờ sư phụ không còn nữa, hắn phải tự phạt mình, để thấm thía tận
cùng cái gì là vướng vít, đè nặng.
Thật khó lòng tìm
thấy một hình ảnh nào trong đời có thể bi
tráng hơn thế. Hắn một mình kéo lê một hòn đá lớn, tìm lên đỉnh
núi giá lạnh không người. Trên tay ôm ghì bức tượng Quán Âm. Một hình
ảnh khốc liệt. Tôi muốn gọi hắn lúc này là một hành giả, một hành
giả vác tượng lên ngàn. Một hành giả đang ngược nguồn
để hành hương giữa mùa đông cuộc đời, mà cũng là mùa
đông tâm linh. Nhạc phim lúc này cũng bất chợt trầm hùng vang vọng một
thứ âm thanh xa vời, mộng mị. Bài Bát-nhã Tâm Kinh trong
giọng đọc tiếng Hàn của người con gái nào đó như đi về từ một cõi chiêm
bao với từng câu chữ Xá-lợi Tử! Sắc Bất Dị Không, Không Bất Dị Sắc... Lần
đầu tiên tôi cảm nghe dòng kinh Bắc truyền đó thơ mộng và quyến
rũ đến vậy.
Theo từng bước lê
chân nặng nhọc của hắn qua những ngõ mòn sỏi đá, lời kinh kia như
nương gửi gió rừng mà lan tỏa, phủ đầy một cõi huyền âm. Tiếng kinh thấm đẫm
lòng người, len vào từng khe đá, thớ gỗ. Lời kinh làm rung chuyển mọi cõi
miền không gian, đánh thức mọi mê lầm ngái ngủ, cho
tất cả cùng bật dậy một sức sống tỉnh thức. Biển khổ mênh mông, mà
quay đầu lại là bờ. Và bến bờ ấy đã hiện ra trong mắt hắn.
Hắn cung kính an vị bức tượng lên mỏm đá trang trọng nhất trên
đỉnh núi và cúi đầu chiêu niệm. Hắn đã bỏ lại tất cả gánh nặng trên
từng dặm đường đến đây. Hắn đã diễn dịch huyền
nghĩa bài Tâm Kinh ra nhiều tâm ấn cụ thể giữa
đời: Tha thứ, can đảm, bao dung, thấu hiểu, cưu
mang và buông bỏ. Hắn muốn vác thay cho muôn loài tất cả những gánh
nặng. Hắn sám hối và đáp đền cho vạn hữu đã cưu
mang hắn, trong đó sư phụ và người đàn bà đã đi qua đời hắn đang
là hai giọt nước cùng hòa tan vào đại dương. Và lần đầu tiên trong
đời mình, hắn bất chợt thấu hiểu tận cùng câu minh chú ở cuối
bài Tâm Kinh đó: Gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāha. Lên
đường, lên đường đi, hãy qua sông để tìm về bờ bến khác!
Hắn về lại cổ am, và một mùa xuân mới lại bắt đầu trên chính cậu bé mồ côi vừa nhập môn bất đắc dĩ kia. Nó chính là hắn mấy mươi năm trước. Một chu kỳ mới, một tuần hoàn mới. Mọi thứ lại tái hiện trong bối cảnh hồ nước tan băng, hoa cỏ sung mãn, hồ rộng núi xanh và mọi thứ lại bắt đầu. Ngoài kia nắng đã lên giữa một mùa xuân có rừng phong và núi đá xanh rêu. Trong cổ am, con rắn già chậm rãi bò ngang bàn Phật, lặng lẽ, thành kính.
DẤU QUÊ
Toại Khanh
Sống đời hay hành
đạo chung qui chỉ là hành trình tìm thấy những cái duyên để
mình vui hơn hay buồn hơn, tốt hơn hoặc xấu hơn, lên cao hơn
hoặc xuống thấp hơn, và rốt ráo nhất, là nhận diện được cái
duyên nào để mình ra khỏi hay trở lui cái vòng lẩn quẩn của
cuộc trầm luân.
Hắn hồi quận. Như
chiếc lá về cội, như giọt nước về sông, như mưa về đất. Đơn giản thế
thôi, không gì hơn nữa. Và ba lần bảy ngày làm nên con số hăm mốt nhỏ xíu như
giấc chiêm bao trong một giấc ngủ ngày, nóng bức mệt mỏi. Nhỏ,
nhanh, ngắn, mà cái gì cũng có đủ. Như một cuốn phim ngắn hoàn chỉnh nhất. Tái
ngộ, sơ ngộ và trong đó dĩ nhiên còn là những hạnh ngộ.
Về rồi lại đi. Có cái
duyên đưa về thì cũng phải có cái duyên nào đó đưa hắn đi. Buồn vui ngày về
và vui buồn ngày đi, cũng đều do duyên cả. Mười mấy giờ bay để quay
lui với những bến bờ viễn xứ, hắn cơ hồ không thể chợp mắt trong mươi
phút cho thật tròn giấc. Trong cái lan man giữa một miền tâm tưởng mơ
hồ loang loáng như màn mưa qua cửa kính máy bay, hắn cứ nghĩ hoài một chữ
mà với hắn bây giờ bỗng linh thiêng như một viên xá
lợi (thứ thiệt).
Chữ Phạn Paccaya
(pati+i) trong kinh Phật xưa giờ vẫn được người Tàu dịch là duyên. Khái niệm
Duyên trong Phật Pháp sâu và rộng kinh khủng lắm. Nói chữ
nầy gói hết tám vạn tư pháp môn trong kinh điển tuyệt
đối không sai. Bởi khi hiểu Duyên là bất cứ động cơ hay điều
kiện nào dẫn đến, đưa tới cái gì đó thì rõ ràng toàn
bộ lời Phật chỉ nằm trọn trong chữ Duyên.
Hắn bỏ quê xa xứ để
sống vong thân ở những bến bờ viễn mộng, đó cũng là duyên, điểm bắt đầu của một
chuỗi sự kiện nào đó trong đời. Một ngày mưa trở về để
không biết cái gì đang chảy trên má, nước mắt bồi hồi của đứa con tha
hương hay làn mưa trong một buổi chiều trên phố cũ. Đó cũng là duyên.
Đi để theo tiếng
gọi muôn trùng của mây nước, cũng là duyên. Về để lắng nghe đất quê vẫn là
cõi nhớ trùng trùng, đó cũng là duyên.
Quen, thương rồi xa
rồi quên mất nhau giữa dòng đời hối hả cũng là duyên.
Ngày trùng
phùng hai mái đầu đều sương điểm, thương nát lòng mà vẫn phải nhớ hoài hai
chữ cự ly. Đó cũng là duyên.
Biết đã một xa thì
ngày trở lại khó lòng hẹn được, vậy mà cũng phải đắng lòng
dứt áo rời đi. Đó cũng là duyên.
Mưa phi trường, nắng
sân ga cho bao nhiêu là can tràng đòi đoạn…ai dám bảo đó chẳng là những cái
duyên cho kẻ đi người ở thêm một lần hiểu được cái gì là sinh
ly tử biệt.
Từ đó, sống trong lòng
người đẹp Tô Châu hay là chết bên bờ sông Danube như một ca từ của cụ Phạm Duy,
đều chỉ là duyên, là cái cớ cho một hay nhiều bi kịch nhân
gian nào đấy.
Rồi sau cùng và trên
hết, toàn bộ hành trình tu chứng của một người
cầu giải thoát hay kẻ trầm luân xem chừng cũng gói
tròn trong một chữ duyên.
Giới hạnh là
duyên cho thiền định, thiền định là duyên cho trí
tuệ nội quán. Trí tuệ này là duyên cho người chứng
đắc Niết Bàn.
Hiểu được vạn
hữu đều do duyên tạo sanh sẽ bỏ được Đoạn Kiến. Hiểu được vạn
hữu đều do duyên mà biến diệt sẽ dứt được Thường Kiến. Bỏ được
hai tà kiến này chính là Chánh Kiến, bước
đầu của Bát Thánh Đạo, cái duyên dẫn đến thánh trí giải
thoát.
Con đường sinh
tử cũng chỉ là hành trình ngoạn mục của chữ duyên khốc liệt
đó. Cái duyên trầm luân còn đó thì tha hồ sinh
tử. Duyên sinh tử cạn rồi thì người ta chỉ còn một đường là bỏ hết
lại mà đi.
Bắt chước Nhạc Linh
San bỏ Lệnh Hồ Xung để làm vợ Lâm Bình Chi hay như nàng Kiều của cụ Nguyễn Du:
Ma đưa lối quỷ đưa đường, cứ tìm những chốn đoạn trường mà đi, đó
cũng là duyên. Cái duyên cho những nỗi khổ niềm đau.
Sống đời hay hành
đạo chung qui chỉ là hành trình tìm thấy những cái duyên để
mình vui hơn hay buồn hơn, tốt hơn hoặc xấu hơn, lên cao hơn
hoặc xuống thấp hơn, và rốt ráo nhất, là nhận diện được cái
duyên nào để mình ra khỏi hay trở lui cái vòng lẩn quẩn của
cuộc trầm luân.
Bỗng nhớ Ngô Nguyên
Nghiễm quá chừng:
Khách về như một đứa
con hoang
Ấm lạnh theo ân tình của núi
Giũ áo mới hay ngoài gió bụi
Vẫn còn bóng núi ngủ trong tim…
Và trời ạ, đó cũng là duyên!
SÔNG NẮNG VƯỜN XƯA
(GỬI MẸ BÊN KIA ĐỜI)
Toại Khanh
Mẹ mất rồi. Nghe được tin đó từ bên nhà, suốt mấy giờ đồng hồ
tôi chỉ nghe thấy bên tai mình ba chữ đó. Tôi ra sau nhà cắt vội mấy nhánh hồng
rồi vào thắp hương trên bàn Phật. Tôi
quỳ xuống nhìn lên pho tượng và lạ lắm, chỉ thấy phảng
phất ở đó gương mặt của mẹ. Bà đang nhìn tôi và tôi như nghe rõ ràng một câu nói: Mẹ bình yên rồi, sư đừng buồn.
Một chút tàn nhang rớt trên lá y tôi vẫn không hay…
Tính đến tháng tư năm này, tôi tròn 41
tuổi, xa mẹ vừa vặn 11 năm. Mẹ còn,
không thấy gì đặc biệt. Những khi nhớ, chỉ
nghĩ đơn giản là thiếu gì dịp gặp lại,
dù nói thiệt, tôi cũng không biết đó là dịp nào. Chẵng biết vì sao cứ
nghĩ đơn giản là mẹ sẽ còn đó hoài
hoài để chờ mình về. Rồi thì bữa nay mẹ đi mất, tôi giật mình thấy sao có
thể hồn nhiên vậy. Mẹ như dưỡng khí,
thở suốt một đời hiếm khi nhớ mình thở
bằng gì. Khi bị ngạt thở mới chịu nhớ vì đâu mình sống được. Mẹ xa rồi người ta
mới hiểu cái gì là thiêng liêng nhất
đời. Cảm giác mồ
côi mẹ giống cái chết ở chỗ mỗi đời
người chỉ có một lần, khi hiểu
được thì xong rồi, chẵng còn dịp kinh nghiệm lần
hai để mà chuẩn bị tinh thần !
Buổi trưa ra sau nhà nhìn xuống mặt
hồ mênh mông. Thiệt lạ, tôi nhìn từng đợt
sóng lăn tăn trên hồ mà cứ tưởng như đang thấy lại dòng sông quê cũ năm nào,
nơi một phần tuổi thơ của của tôi từng
nằm lại đó. Tôi như nghe lại cả tiếng còi tàu ban trưa từ một cõi nào thật xa
vắng, có mẹ tôi bên một bờ lá đìu hiu và
một mảnh vườn con hửng nắng vàng với vài ba cây ổi sẻ. Giờ thì mẹ đâu còn nữa.
Gì cũng chỉ là một cõi ký ức nhói đau… Bao thứ cao đàm khoát luận ở đời giờ chỉ
còn là một trò chơi con trẻ, gì cũng không nằm ngoài một ánh mắt của mẹ ngày
xưa…
Bỗng thấy cô
đơn quá chừng. Sở tri Phật học cũng
chừng đó, không khác đi, vậy mà lòng
phàm vẫn cứ đau đáu. Vậy là Vu Lan này không còn bông hồng nữa rồi, chỉ còn là
hoa trắng. Đơn giản quá, nhưng đau như
một vết chém treo ngành.
Bỗng giận mấy người không biết thương
mẹ. Chuyện của họ mà mình cũng giận được. Có ai biết tôi bây giờ có muốn mượn
tạm một bà mẹ của ai đó để mà thương cũng không được nữa. Mẹ tôi đi rồi. Bà mẹ
nào khác trên đời với tôi lúc này nhiều lắm cũng chỉ là giống mẹ, không phải mẹ
tôi. Nhiều khi mình coi thường những
gì trước mắt, một
đời kiếm tìm những thứ xa xôi cao vời, khi tỉnh lại mới thấy cái mình cần đã không còn nữa.
“Này các tỷ kheo, đây là thời điểm để các người tinh tấn tu học, khi mà tăng chúng chưa chia rẽ nhau, khi mà
chuyện khất thực còn dễ dàng, khi mà nhân gian chưa lâm cảnh loạn lạc, khi mà tấm thân này còn khỏe mạnh vững
vàng…” Trong nỗi
đau nhớ mẹ, tôi bỗng nhớ lại bài kinh đó
như một chút quà nhét vội vào tay nãi của mẹ trước khi bà vĩnh viễn bỏ tôi lại mà đi.
Xin cúi đầu thâm tạ mấy người anh em
trong nước đã tranh thủ cho tôi nhìn
thấy lần cuối quan tài của mẹ trước lúc hỏa thiêu.
Hãy biết tranh thủ thời gian trước khi chuyện gì cũng là quá muộn.
Tôi thức trắng để viết bài này như một
món pháp thí gửi muôn phương. Một
người đọc hiểu thôi, coi như tôi vừa bòn chút công
đức để mẹ tôi có cái cầm tay trên đường…Dù tôi vẫn tin trong trong
chuyện tu hành, mẹ không đến nỗi là một
người tay trắng.
Bốn đêm trước, mẹ còn bên đó. Đêm này mẹ
ở đâu ? Cõi trầm luân nghìn trùng ở
cả hai nghĩa đen và bóng. Giá có
thể yểu mệnh để gặp lại người, con sá
gì những năm tháng phù du….
HÀI CỎ BỜ SƯƠNG
Toại Khanh
Họ cưỡi sóng trùng dương mà đi về những
miền đất lạ, coi thân sinh tử như giọt
sương mai và hành trang chỉ là một lòng đại nguyện không
muốn chỉ riêng mình thoát cõi trầm luân….
Họ chân cứng đá mềm qua những miền gió
cát chất đầy đầu lâu xương trắng, những sơn đạo hoang
vu chỉ có gió núi mưa rừng và hành trang vẫn là một chữ thương đời…
Họ một đời ẩn
tích sơn lâm để làm cái gương sống đạo cho muôn người sinh tử theo đó mà tiến tu…
Họ học giả,
họ thiền sư, họ du tăng, họ chẻ đá khai sơn gầy dựng đạo
tràng, họ mở đạo tạo tăng để tìm người truyền
thừa mạng mạch tông môn, họ
chịu đánh chửi khinh miệt, họ gánh hết khổ nạn nhân quần, họ làm mọi sự gian
truân chỉ vì một chữ Phật ở đời. Phật là hiểu, là thương, là bao dung, là chia sẻ chân
tình không điều kiện. Đời mất
Phật rồi thì thiên hạ quay về với thuở hồng hoang. Hồng hoang ngay từ
trong tâm thức, với những trái tim không
tình người và những khối óc chỉ biết sắt thép. Đại
khái buồn ghê gớm. Vậy là đời cần có Phật.
Tôi muốn thưa rằng họ là những Phật Âm, Huyền Trang, Giám Chân, Pháp Hiển, Nghĩa Tịnh, A Đề Xá, Tôn Khách Ba,…Không có họ, có lẽ Phật giáo hôm nay không có kinh điển và cái gọi là tông môn. Thiếu hai món này, dám hỏi đạo Phật còn lại gì. Kiểu Phật giáo bất lập văn tự gì
đó thực ra đã tan theo ngọn lửa trà-tỳ
ngay sau ngày Thế Tôn viên tịch. Đời nay không có kinh văn thì hậu
nhân cầu pháp khác gì người nấu sỏi
tìm cơm !
Rồi chuyện đời biển dâu, hữu hình hữu hoại, Phật còn bỏ đời mà đi thì nói
gì hàng môn đệ phàm nhiều hơn
thánh. Thời mạt pháp đời càng gieo neo
nghìn lần mà đạo lực người hoằng dương
ngày một thiếu hụt. Đã huyễn hoá, đời nay càng thêm nhiều trò huyễn hoá, đạo nghiệp hoằng
dương từ đó cũng phải thêm chút cơ xảo để hướng dẫn người sơ học và đó cũng là cái cớ chẵng đặng đừng cho
bao thứ thị phi tan nát can tràng.
Tôi nhớ từng viết ở đâu đó rằng đời vì lục
căn mà trầm luân thì người hành đạo giải thoát cũng
phải từ lục căn mà tìm ra chỗ thoát. Hiền
thánh xưa đạo lực thâm hậu
với cơ man những phương tiện diệu dụng, người sứ giả
Như Lai hôm nay đôi khi chỉ còn biết trông
cậy vào vài món du hí tam muội thời
thượng. Tất thảy những hình ảnh, âm thanh khả dĩ chở được ít nhiều gợi ý cho
người học đạo đều được tận dụng như
những thân cây, mảnh gỗ, hay thùng thau chum chóe cho người chết đuối trên
dòng. Ý nghĩa tận dụng đó dĩ nhiên cũng bị lợi
dụng thê thảm, nhưng suy cho cùng,
nói theo Cơ-Đốc-Giáo, người hoằng dương chính là những kẻ vác thập giá khổ nạn mà đi, chen lấn với cả những người anh em
ham chơi để làm cho xong nghiệp lớn và dĩ nhiên tai tiếng chia đều!
Một buổi khuya cách đây mấy hôm tình cờ đọc thấy một bài báo trong nước rồi thì
nói như Quang Dũng “Đường đi không
gió lòng sao lạnh”, nghĩa là không dưng mà cứ nghe bùi ngùi một nổi riêng không tên gọi.
Bài báo do một tay ký giả trong
nước xem chừng cũng là người mộ Phật.
Chỉ một bài phóng sự con con đăng báo mà tác giả cứ
như rút hết tâm tình mà tán, mà dặm như chuyện riêng đời mình.
Chuyện kể về một vị đại ca giang hồ ở Đà Lạt sau những sóng gió gặp phải trên đường lăn lộn đã một
ngày ngẫu nhiên tìm đến với Phật
qua câu chuyện về một nhà sư nghệ sĩ ở Huế. Bài viết thâm thiết chí tình và ly kỳ như
tiểu thuyết Duyên Anh nhưng lại là chuyện có thật. Bỏ hết những ngày
tháng gay cấn máu hận, chàng trai trẻ
kiêu bạt kia đã phủi tóc xuất gia và
chọn lấy một kiểu sống đạo thật lạ và
cũng rất thời thượng: Hoằng dương bằng máy ảnh!
Nhà sư trẻ đó đã chọn lấy một con đường vừa sức mình
và có lẽ cũng là người khai sơn phá
thạch cho một kiểu tu hành thời đại. Sao cũng là hoằng dương hết, đưa người về
với Phật qua những âm thanh, sắc tướng cũng là một kiểu lợi tha. Tôi bỗng nhớ đến một nét riêng rất độc đáo
trong văn hoá tâm linh Việt là hầu như
người Việt nào cũng bắt đầu yêu Phật bằng những tiếng
chuông chiều mõ sớm nghe được ở đâu đó, có khi chỉ là tiếng vọng từ một quảng
đời thơ ấu. Rồi thì hình ảnh một bát hương, một mái chùa, đều là một
phần hồi ức của tuyệt đại đa số người Việt nông thôn. Trong những trường hợp đó, mùi
thơm vi diệu ở cõi Chúng Hương
gì đó bên Phật giáo Bắc truyền có lẽ
không gần gũi bằng chút mùi nhang phảng phất bên
bờ ruộng buổi chiều hay những thảo am lẽ loi đâu đó bên
lưng đồi, chân núi. Cả cái Pháp Âm Sư Tử Hống gì ấy cũng không ru được long người
hữu hiệu như một tiếng chuông rơi
rớt đâu đó trong một buổi chiều muộn.
Tôi nhớ mấy câu truyện ngắn của Tự Lực Văn
Đoàn cũng đã tận dụng những tiếng chuông chùa
ở xóm làng Bắc Việt để làm nền cho không ít những tình huống rất tế nhị. Thế là mùi hương hay âm thanh nếu được vận dụng đúng chỗ cũng cứ là
những con đò đưa người sang sông.
Dĩ nhiên không thể đem so sánh một chút mùi nhang hay một tiếng chuông chiều với một tấm ảnh nghệ thuật,
nhưng tôi cứ muốn thưa rằng gì cũng tốt, làm sao thấy được thì thôi. Cái quan
trọng vẫn là cái đó đưa ta về đâu.
Nói chuyện người rồi lại nhớ chuyện ta.
Từ rất lâu ngày, tôi vẫn có những giây
phút như quên mình trước những tấm ảnh
nghệ thuật của Phật Giáo Nhật Bản. Những
khi đó, tôi cơ hồ đã quên mất những gì là Tào Động, Lâm Tế để chìm sâu vào một khuôn sân trải đầy cát
trắng, một bóng người đen sẩm bên cạnh lầu chuông, một dòng nước rót nhẹ vào
hốc đá từ một cái máng tre hay đôi bàn chân ai đó như đang bước nhẹ nhàng thanh thản trên một sàn gỗ và xa xa ngoài sân là
vài ba chiếc lá vàng im tiếng. Chỉ chừng đó thôi, lòng đủ thanh thản để hít sâu thở chậm, để nhớ Phật và
quên hết ưu phiền. Trộm nghĩ, nếu tiếp tục xem
thêm vài chục tấm hình tâm đắc kiểu đó
thì coi như tôi đã có ít nhất một giờ
trầm tưởng, một kiểu công phu của nhà
Phật. Người nghệ sĩ tác giả của mấy
bức ảnh đó rõ ràng đã hoằng pháp theo cách riêng của mình để cứu vớt
một tục khách là tôi, giúp tôi quên mất gì là Nam Truyền Bắc Phái, Đại
Tiểu Hiển Mật,.. để đơn giản nhớ tới những chuyện căn bản nhất là buông hết mọi gánh nặng, xoá nhoà mọi biên
giới để đạt tới những gì cao rộng nhất. Tôi đã yêu mấy tấm ảnh đó
đến mức quên mình dốt chữ Hán để đùa
rỡn văn tự bằng cách dịch sai chữ
Nhiếp Ảnh thành Bắt Bóng, là trò chơi ghi lại khoảnh khắc sinh diệt của một quá
khứ phù du, là trò chơi dạy người ta hiểu
rõ bài học Khắc Dấu Mạn Thuyền rất mực thâm hậu.
Hai đêm nay cứ ngũ sâu một tí lại mơ
thấy mình bỏ hết kinh tượng để cầm lấy cái máy ảnh lang thang đâu đó bên Ấn, bên Tàu để chiêm ngắm vạn hữu bằng công
phu Nhiếp Ảnh Tam Muội. Nhưng
trời ạ, lúc quay về quán trọ mới hay
chiếc máy trên tay mình lâu nay chỉ là loại máy Kodak chụp hết cuộn phim thì
vất. Giật mình thức giấc rồi thì có
được một bài học nửa lạ nửa quen: Mắt tuệ kém cõi thì khả năng ghi nhận dễ có vấn
đề.
Xin cảm ơn sư CH, người đã rũ áo giang hồ đề trở thành phương trượng ngôi chùa Định Quang rách nát mà thiền vị bên dưới chân đèo Hải Vân. Tôi cũng xin cảm ơn anh nhà báo đã viết bài về nhà sư kỳ lạ đó và dĩ nhiên cũng phải cảm ơn những người đã đọc bài viết này của tôi. Chỉ cần trong lòng có Phật, trong tim có tình người thì thể hiện nào cũng là một cách thế lợi tha. Thôi thì muôn nẻo hoằng dương, đưa nhau được một đổi đường cũng vui !
LỐI XƯA THU THẢO
Toại Khanh
Trời đất ở đây đang
vào thu, cỏ cây đẹp đến chết người, nhưng bây giờ là tiết tháng mười, nên mới 5
giờ chiều thì nắng đã muốn tắt. Tôi ngẫu nhiên có mặt trên con phố
này vào thời điểm sáng tối giao ban ấy, để lại có dịp thấm thía một
điều hết sức bình thường mà chiều nay thì bỗng nhiên rất lạ:
Không cái gì ở đây là mới lạ với tôi hết, dù hôm nay là lần đầu tôi tới
nơi này. Mọi thứ ở đây sao mà quen thuộc đến vậy. Rồi thì như
một kẻ mộng du, tôi bật cười một mình. Có đi bao xa thì tôi cũng
không sao trốn được cái bóng của mình, có đi bao xa thì cũng chỉ là sự trở
về, sự quay lại để mà trùng phục, tái hiện (samsara)!
Chuyện đó nghe qua như
huề vốn. Ai học kinh Phật lại chẳng biết qua cái điều rất đỗi căn
bản và đơn giản đó. Nhưng tôi vừa thưa rồi, không phải tôi vừa
nhớ lại bài học giáo lý cũ, mà là thấm thía một điều từ lâu cứ ngỡ là
mình đã học xong, chẳng còn gì để bàn đến nữa.
Tôi lại bước đi trên
con phố, con đường lát đá không lưu lại tiếng chân, để tôi có
thể lắng nghe trọn vẹn toàn bộ cái gọi là âm thanh một
buổi chiều với những gió thổi, lá rơi và thảng hoặc một tiếng còi xe
từ đâu đó. Lối đi này chỉ dành cho người đi bộ. Thế là tôi yên tâm bước,
dù vẫn luôn nhớ giữ lề phải để không làm phiền những người khách ngược chiều.
Suốt mấy giờ đồng hồ chiều nay, như một cái máy được điều khiển bằng một
software cài sẵn, đôi chân và ánh mắt tôi chỉ dừng lại ở những nơi chốn gần
như giống hệt nhau: Một gốc cổ thụ xù xì, một tảng đá xanh
rêu, một dòng nước trong vắt, những cửa hiệu nhỏ xíu kiểu boutique với
những mặt hàng không thay đổi, như tranh tượng Á châu hay sách cũ.
Tôi giật mình khi nhớ
lại bao lần lang thang đâu đó, hình như khẩu vị của tôi chưa từng thay
đổi. Dù có thể đó là một nơi chốn chỉ mới đặt chân đến lần đầu, tôi cứ như
đang quay về, chỉ vì tim tôi và mắt tôi chỉ hướng về những gì quen
thuộc. Có đi đâu, với tôi cũng là tìm về chốn cũ bằng những con
đường mới. Như chồn nhớ hang, như hổ nhớ rừng, trẻ con nhớ mẹ, viễn
khách nhớ quê. Thế giới này có rộng lớn bao nhiêu cũng mặc, cái
quan trọng là cảnh giới của riêng tôi ra làm sao. Tôi có thể
nhìn thấy nó qua bao nhiêu điều gợi ý, và bản thân nó có đủ để tôi
vươn khỏi đầu cây ngọn cỏ để tới được trời xanh hay không. Không từng
bỏ thời gian để nhìn lại cảnh giới nội tâm chính mình,
cõi sống của mỗi người có thể chỉ quẩn quanh trong một bể cá kiểng.
Trong một thoáng phiêu
linh tôi bỗng thấy mình chẳng còn là một du sĩ ta bà như vẫn tưởng,
mà chỉ là một chú cá hồi (salmon) đang giã biệt trùng khơi để một
mình làm chuyến ngược nguồn về lại nơi chốn mình đã phôi sinh từ bao đời
kiếp. Tôi cũng nghe đâu đó trong sâu thẳm tim mình nỗi niềm hoài quận
của một người Do Thái điêu linh đang từng bước trở
về miền đất Hứa của riêng tôi, như tôi đã hứa với chính mình,
chứ không phải một đấng cao xanh nào hết. Phải mà, Bồ-tát hay không Bồ-tát thì
ai lại chẳng có một cõi miền để quay lại. Có điều rằng cõi miền ấy là đâu để
một hạt cát hóa thân thành Phật hay tiếp tục vần
xoay trong biển đời miên viễn. Thì ra tôi chỉ là những gì chính mình vẫn hoài
vọng và chốn đi về của tôi cũng chính là phương trời mình vẫn đau đáu
ngoái nhìn. Một con cá hồi, một người Do Thái… Ai cũng chỉ là chừng đó mà thôi!
Tôi nhớ từng đọc
ở đâu đó câu nói này: Hãy cho tôi biết 5 điều anh thích nhất và ghét
nhất, tôi sẽ cho anh biết con người của anh ra sao. Con số 5 đó không
lớn, nhưng theo tôi, hình như nó cũng tạm đủ để phác họa một con
người cùng cảnh giới lai vãng của anh ta.
Nói vậy, nhưng nhiều
khi chẳng cần đến con số 5 ấy để mà hiểu một người hay một chuyện. Trong
vùng tâm tưởng lan man, tôi chợt như nghe lại bên tai mình
một câu chuyện trẻ con ai đó mới kể chiều hôm qua, để rồi phải giật
mình khi nhận ra rằng nơi chốn để tôi quay về bây giờ phải
là ở đâu.
Thằng bé Marlon 4 tuổi
trong một bữa điểm tâm đã càu nhàu với mẹ:
– Con chẳng khoái cái
thứ phô-mai Emmentaler này tí nào, gì mà nhiều lỗ như tổ ong đấy mẹ ạ.
Bà mẹ biết rõ cu cậu
chỉ thích kiếm chuyện, nhưng vẫn ôn tồn, dỗ dành:
– Mẹ biết, nhưng sáng
nay nhà mình chỉ còn một thứ phô-mai này thôi. Con chịu khó một tí
đi. Thôi thì thế này, cứ ăn hết phô-mai còn mấy cái lỗ trên đó thì chừa
lại.
Thằng bé loay hoay một
lát, rồi cũng chén sạch miếng phô-mai vì không biết phải làm sao để chừa
lại mấy cái lỗ!
Con đường lát đá
trên con phố cổ buổi chiều cứ lặng câm không bật lên một tiếng
động nào, nhưng rõ ràng tôi vừa nghe thấy mồn một từng
bước trở về của mình trên một vùng đất hẹn:
“Đường dài ngựa
chạy biệt tăm
Người thương có nghĩa…trăm năm cũng về” (Ca dao)
Nhưng Rồi Có Những… Toại Khanh
Có
những cuộc lên đường là sự trở về quê cũ chốn xưa, cũng có những cuộc đi đúng
là hành trình tìm về cõi lạ. Có những chuyến lên đường như là cuộc vận động để
mình sống hơn, khỏe hơn, đẹp hơn. Có những cuộc lên đường là sự tìm về với bóng
tối quạnh hiu, chỉ khiến mình gầy yếu và hao tổn sinh lực…
Có
những sự ngồi yên là tĩnh tọa để vào sâu, lên cao, đi xa. Kiểu ngồi khi đó như
dáng núi, đá tảng, như voi đứng, cọp nằm. Cũng có những thời khắc ngồi yên chỉ
là sự ở lại với đôi chân bất lực, với một góc buồn không sao trốn thoát. Ai lúc
này cũng có dáng ngồi như tượng vỡ gỗ mục, kiểu ngồi của đá nát vàng phai…
Có
những nỗi buồn cứ như thuốc đắng, làm người ta vững vàng già dặn hơn. Nổi buồn
càng sâu, sự trải nghiệm càng lớn. Và dĩ nhiên cũng có nỗi buồn giống hệt thuốc
độc, khiến người tan nát can tràng qua từng phút gậm nhấm nỗi đau.
Có
những niềm vui là thảo nguyên ngút ngàn hoa cỏ cho lòng lành tung tăng, niềm
vui càng lớn thì con người cũng lớn theo để ra bậc hiền nhân. Có những niềm vui
chỉ là tên gọi khác của tục lụy, vui mà chứa mầm đau, như mật ngọt trên lưỡi
dao hay sắc màu trên mình rắn độc.
Có
những cuộc chuyện trò là lời tri tâm của những người tri kỷ thông tuệ, nhất tự
thiên kim và một phút cạnh nhau có khi bằng mười năm đọc sách. Lại cũng có những
cuộc chuyện trò vô nghĩa như tiếng côn trùng hợp tấu trong đêm, như tiếng muỗi
bay báo trước một cái gì bất ổn.
Có
những sự im lặng là lối sỏi dẫn vào thiền thất sơn động. Đó là sự im lặng của
người có nhẫn, có xả, có trí, có bi. Có những sự im lặng chỉ là cách đồng lõa với
vô tri gỗ đá, với vô cảm lạnh lùng. Không phải ai cũng hiểu được và có được sự
im lặng lợi mình, lợi người. Phật giáo Bắc truyền gọi đó là sự im lặng của tôn
giả Tu Bồ Đề, của nhị tổ Ca Diếp. Phật giáo Nam phương gọi đó là niềm thinh lặng
của Vô Tướng Tâm Giải Thoát.
Có
những sự chia xa chỉ là tạm biệt, đi mà có hẹn về. Xa kiểu đó tuy xa mà gần. Có
những cuộc chia tay là vĩnh biệt, là đi không nghĩ đến lúc về, quay đi không
mong có lúc nhìn lại. Xa nhau kiểu này đúng là nghìn dặm thiên nhai, là nghìn
thu vĩnh quyết. Trong đạo hay ngoài đời, chỉ cần biết cái gì cần tạm biệt hay
vĩnh biệt, hình như chẳng còn gì để nói thêm.
Có
những sự bày tỏ là chia sẻ, trao tặng báu vật. Cũng có sự bày tỏ chỉ là buộc
người phải ăn trái đắng, uống độc dược. Biết chọn cái để cho và biết lựa món để
nhận hình như cũng đủ là phép sống ở đời.
Có
những thứ chỉ đọc hay nghe một lần cũng đủ khiến kiếp này không là vô nghĩa. Có
thứ dẫu đọc hay nghe một đời cũng chỉ là đếm lá trên non.
Có
những sự kết hợp tuyệt vời đến mức không thể tốt hơn, không còn cách nào khác
hay hơn nữa. Lại cũng có những cuộc kết hợp chỉ là chắp vá tật nguyền, sai nồi
lộn nắp, chỉ khiến người trong cuộc thêm đau.
Từ
đó, có những cuộc tình như đến từ vô lượng tiền thân, tìm thấy nhau giữa biển
người dễ dàng như đã hẹn.Và nói như một người, có những cuộc tình không là trăm
năm!
No comments:
Post a Comment