Tuesday, May 25, 2021

MĐTTA 11

 NGHẸN LỜI
Dòng sâu chèo chống một mình
Lướt ghềnh vượt thác, phù sinh nhọc nhằn
Mặt trời nắng ấm tháng năm
Tình cha vô lượng, Nói năng nghẹn lời!

Vài ba câu chuyện cũ
Dăm bảy cuộc khứ lai
Tới lui, non đứng lặng
Nhẹ tay khép cổng ngoài!

CHA MẸ GIÀ
Mẹ già, mai vườn cũ
Cha già, tùng non cao
Hai thân đều rắn rỏi
Mưa nắng mỉm trần lao!

Vỡ sỏi đá trồng tre
Chồi măng chừ vươn đọt
Ân dưỡng dục bồ-đề
Lệ khô không thấm đất

Rừng gió vi vu
Rớt một tiếng chim, xao hữu niệm
Khóm tre xào xạc
Rơi vài chiếc lá, động vô thanh
 
PHONG LAN
Chút sương nước, chút khí trời
Đóa hoa lòng mẹ một đời sắc hương
Cái ngon, cái tốt mẹ nhường,
Cơm thừa, canh cặn, tam thường làm vui!
 
MẸ CHA
Nón cời, áo vá quanh năm
Mẹ cha lẫn với bóng trăng quê nhà
Trở xoay vại muối, chum cà
Nuôi con tài trí bằng ta bằng người
 
THI PHÁP QUA THƠ NGÀI HÒA THƯỢNG GIỚI ĐỨC MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH.

KHÔNG ĐỀ
Mai sau ta đốt chư kinh
Đạo về am cỏ lung linh nguyệt vàng
Mai sau có kẻ bên đàng
Dưng đâu giác ngộ tự làn gió xao
 
LỜI BÀN
Kinh điển, chữ nghĩa chỉ là khái niệm chỉ về Cái Thực. Kinh điển, chữ nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng, vấn đề là phải thấy mặt trăng chứ không phải ngồi mà luận bàn lý giải, phân tích ngón tay! Than ôi, các nhà lý giải và phụ chú giải thường làm cái việc vô tích sự, ngu ngơ ấy!
Nói rõ hơn một chút nữa:
Niết-Bàn được thực chứng là Cái Thực, còn Từ Niết-Bàn được viết ra hoặc Niết-Bàn được hiểu trong óc chúng ta chỉ là khái niệm.
Cái ly nằm trên bàn tôi thấy là Cái Thực. Nhưng khi tôi giảng nói về cái ly thì trong đầu chúng thính hiện ra 100 cái ly khác nhau! Thật là xa cách ngàn trùng, muôn sai ̀ngàn khác.
Vậy muốn thấy Cái Thực thì phải đốt khái niệm đi trả lại cho Cái Thực muôn nơi muôn thuở là cái đẹp muôn đời của chư pháp, của thiên nhiên vạn vật. Đạo về am cỏ lung linh nguyệt vàng!
Người giác ngộ không cần phải tầm cầu Đông, Tây, Nam, Bắc mà có thể ở tại đây và bây giờ. Như kẻ lơ ngơ đi bên kia đường chỉ một làn gió thổi xao qua là có thể thấy Pháp sinh pháp diệt pháp đến Pháp đi... một cách tự nhiên như nhiên vậy!
KHÔNG SƠN ẨN GIẢ
 
KHỔ ĐẾ. ĐÌU HIU
Em ơi! Lỡ tay
Khổ đế đường trần rớt xuống cuộc đời
Dòng sông sinh tử Loay hoay số phận
chưa lần đứng yên khóc cười đìu hiu
Sương buồn Bên sông
rỉ lệ bên thềm còn chiếc đò chiều
Lá vui phe phẩy Bạt ngàn sương nước
Tình đêm tình ngày liêu xiêu bóng người
 
KHỎE LIỀN
Còn hoa thì bướm tìm về
Còn kinh Còn chữ, tỉnh mê còn bàn
Còn lý sự, Còn lan man
Ra sông úp chiếc đò ngang, khỏe liền!
Tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh
 
BỨC TRANH
Bâng khuâng ngồi nhớ đại huynh
Vô tình nét trúc Rõ hình giọt sương
Bút nghiên thơm thoảng xạ hương
Bức tranh chưa vẽ, mười phương thiền về!
Thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Ai Chừ?
(Tặng những ai nhớ Huế)
sống giữa Huế, ta làm sao nhớ Huế?
để tình xưa, cánh vỗ ký ức xanh
ta đã hỏi thời gian
và hoàng thành rêu cỏ mọc
cùng phế đài, gạch vỡ lạc nương tranh!
Huế ta chừ! mù sương
Ngự Bình không còn nữa
tủi hồn trăng và thẹn chân dung thơ
cây và đất cỗi cằn, trơ xác lá
con chim màu mạ non lạc bầy
rơi tiếng hót bơ ngơ!
Huế ta chừ!
màu xanh tím sông Hương
chẳng còn xanh tím nữa
khói bụi dày, ai pha bạc còn đâu
ta cũng đã hỏi Dã Viên và Cồn Hến
cầu Trường Tiền, dải lụa hóa nương dâu!
sống giữa Huế, ta làm sao nhớ Huế?
bóng Hàn còn thuyền trăng chở tối nay?
Vỹ Dạ, Ưng Bình, lời ru điệu lý
xao xác bờ, sông nước lạnh lùng thay!
chuông ngân sương rớt giữa miền tâm linh quên lãng
nóc đỏ, nóc hoe ngạo ghễ ngự vương đài
âm thanh sướt mướt trượt qua miền thơ dại
hoa, trầm, hương bẽn lẽn phố, xe, người!
sống giữa Huế, ta làm sao nhớ Huế?
chỉ xót xa thương, thương quá, Huế thương ôi!
nắng lửa, mưa dầm, sắn khoai chan nước mắt
làng quê còn quá nghèo, cơ cực, quặn lòng thôi!
cảm ơn ai chừ? ai cho ai hạt gạo?
ai ngu dốt hề! ai hóa đá con tim?
nhưng tình tự tâm hồn và văn hóa tâm linh
thì phải ưu tư trăn trở
Xin cho trong lành miền cây cỏ sông thơm!
để với Huế chừ! vẫn còn ai nhớ Huế!?
để ai xa, tổ ấm chắt chiu hoài
ai phụ bạc, còn riêng ai không thể
ai nói gì, ai hỡi, có riêng ai!
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
 
Khóc Thầy
Trời đổ mưa không ngớt
Tim con bỗng nghẹn ngào
Thầy đi bất ngờ quá
Con ngỡ mình chiêm bao!
(Đệ tử Viên Minh - Viên Không Thiền viện)
 
Tâm Ấn
Rừng trăng người yên nghỉ
Tháp báu ngọc lung linh
Cỏ hoa tu mật hạnh
Đá sỏi niệm chơn kinh
Cõi thiền lưu tâm ấn
Đất Phật hiển nhân tình
Đầu-đà gương thanh khiết
Trí tuệ chiếu quang minh
(Huyền Không Sơn Thượng - Xuân Giáp Thân 2004
Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
 
Lung Linh Bảo Tháp
Như mặt trời giữa hư không
Hạnh Ngài toả sáng trên dòng tử sinh
Một thân một bát dặm trình
Mưa dầm, nắng lửa câu kinh không lời
Trần gian in dấu chân người
Lung linh bảo tháp nụ cười trăng sao!
(Đệ tử Tuệ Tâm)
 
Một đời thân giáo
Mảnh trăng vằng vặc sáng ngời
Tấm gương thân giáo một đời thủy chung
Xót đau thương kính vô cùng
Cố hương đẫm lệ nghìn trùng tóc tang.
(Đệ tử Bửu Đức - Chùa Hương Đạo - Fort Worth, Texas)

Liễu ngộ
Một bát thương đời ôm trọn kiếp
Ba y giải thoát độ muôn người
Tới lui mãn nguyện thiền sư nghỉ
Liễu ngộ sắc không miệng mỉm cười.
(Đệ tử Pháp Nhẫn - Liên Hoa tự viện - USA)
 
Tâm bái
Rừng thiền vắng bóng từ đây
Trời vẫn cao đất vẫn dày mà sao!
Trong con hụt hẫng thế nào
Trăng tâm hiu hắt giọt đau rỉ thầm.
(Đệ tử Pháp Tông)
 
Nghe Hư Không Thuật Lại
 
Truyền thuyết kể rằng,
Thuở xưa,
Nơi đây là rừng hoang,
Là tha ma mộ địa
Vắng vẻ chân người
Nhưng huyên náo quạ, chồn, chim...
Sớm hôm kia, Chợt có một sa-môn
Dáng dấp khô gầy
Ôm bát qua đây
Huyền hoặc và nhẹ nhàng
Như bước ra từ vùng mây trắng!
Có cái gì đó đẹp như thơ
Và mảnh như mù sương bãng lãng
Người hòa mình Vào cây lá, đất trời xanh
Lượm cỏ rác xung quanh
Làm tọa cụ, an nhiên thiền duyệt
Đêm Rất sâu
Chỉ còn vầng trăng là bạn hữu
Tịch mịch một bên trời
Vĩnh cửu! Cô đơn!
Người, ngồi với sao hôm
Và cùng thức với sao mai
Rồi lặng ngắm mặt trời
Phương Đông xán lạn!
Cứ mỗi sớm Người thung dung cất bước
Theo hướng xóm nhà
Xin trái củ nuôi thân
Xa tít là xa Dặm bụi chân trần
Dầu nắng lửa, mưa dầm
Người vẫn điềm nhiên
Thong dong, tự tại!
Tiếng lành đồn xa
Thế là mười phương đua nhau chiêm bái
Tìm đến cúng dường Lễ phẩm, hương hoa
Từ bìa rừng, náo nức giọng sơn ca
Và dưới bụi cỏ lau già kia
Chú thỏ nâu vễnh râu hoan hỷ
Con sóc trắng tò mò đến bên
Khoèo tay lượm hạt
Người mỉm cười Rải vô lượng từ tâm!
Thời gian qua đi
Một mái tranh từ phép lạ hóa thân
Hiện ra giữa tha ma, mộ địa
Như căn lều của bậc đại ẩn sĩ?
Ồ, không!
Càng giống hơn là chiếc tổ của chim trời!
Lối mòn cỏ gai
Từ đó in vết chân người
Theo hương mà tìm đến
Xôn xao gió, chở mùi thơm đức hạnh
Cùng lời pháp dịu dàng, thấm đẫm trí bi
Người nói thơ, chẳng ngôn ngữ kiêu kỳ
Mà tuôn chảy từ suối nguồn trong lặng
Kẻ tối trí mắt liền được sáng
Người ác tham trở lại hiền lương
Giới đức trang nghiêm
Thân giáo một đường
Nên nhiếp phục cả ma vương
Cả ác thần, a-tu-la, dạ-xoa, quỷ dữ...
Thế rồi, Mấy chục năm sau
Giữa ma thiêng, chướng khí
Hóa hiện thành Sơn Tự Thiền Lâm
Có pháp cảnh uy nghi Phật đứng, Phật nằm
Có đệ tử, môn đồ đông vui sóc vọng
Người là hiện thân Của sư vương uy dõng
Trong hình hài tợ khói, tợ sương
Đám mây trắng đi ngang trời
Thông báo một tin mừng
Bậc khổ hạnh đầu-đà
Từ ngàn xưa, bây giờ có mặt
Có chánh pháp là hào quang ngũ sắc
Kệ ngôn xưa: “Nhất bát thiên gia...”
Mưa nắng, xuân thu
Thủy chung giáo hóa sa-bà
Thượng trung chính
Thì tử đệ, môn sinh
Đâu dám bước ra ngoài giới nghi, luật tắc
Người đại định cả tông môn đại định
Người xả ly, tứ chúng nhẹ nhàng buông!
Ôi! Phật pháp cao thâm
Nhân thế nan văn
Nhưng giọt sữa pháp
Được rót từ uyên nguyên giáo pháp
Cỏ cây đã được uống
Và đã được lớn khôn
Từng tế bào trí giác
Biết tri ân người
Thì hãy sống tốt hơn!
Tăng chúng Trung, Nam thiết cốt keo sơn
Thiện tín hai hàng đồng tu, đồng học
Hãy thương yêu nhau
Đừng phân biệt tông thừa, hệ phái
Quả bồ-đề trái ngọt chia chung
Sinh tử, khổ đau, ác kiến chập chùng
Hãy nắm tay nhau, bờ kia, cùng lội!
Hãy xả đoạn mê lầm, ngu dối
Theo con đường cao sáng, đẹp tươi!
Hư không xưa Đâu có thốt lời
Mà dung chứa cả sum la vạn tượng
Người không nói
Nhưng gió ngàn rung chuyển
Bút nào ghi hạnh đức vô vi?
Nước sương đêm đọng chữ truyền kỳ
Thành từng giọt máu
Trong trái tim thơ, sống mãi!
Mảnh trăng Linh Sơn vô tình chép lại
Nên chập chờn
Chập chờn cổ tích đến ngàn sau
Chập chờn hương
Hoa lá sắc thêm màu...
 
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Phụng bút cúng dường
 
 
ĐÁ, RÁC VÀ CỎ THƠM
--------
1. Khói Sương
Đời người chốc thoáng tà huy!
Tử sinh mù mịt dặm đi, dặm về
Đâu lao trần? Đâu hương quê?
Khói sương thân thế, bốn bề khói sương!
2. Thương Thương
Thương thương chiếc lá xa nguồn
Hai bờ mây nước, vui buồn thả trôi
Nông sâu, trong đục rã rời
Đâu bờ, đâu bến, phận đời nổi nênh!
 
1. Huyễn giới ba ngàn như bóng khói
Ảo trần tám vạn tợ hình sương
 
2. Thuyền từ biển bạc, người xuôi ngược
Đuốc tuệ đêm dài, khách tỉnh mê
 
3. Vằng vặc bên trời trăng Thứu rọi
Long lanh đầu cỏ giọt Thiền treo
 
1. Con Số
Miên man ba cõi đắm chìm,
Đất trời sáu nẻo, trăm nghìn thịt xương
Lệ khô cạn bốn trùng dương
Bảy tình lửa đốt mười phương nhân hoàn!
2. Duyên, Nợ
Duyên thuận, đời an lạc
Nợ chướng, kiếp khổ sầu
Cầm trên tay duyên nợ
Thả con nước nghìn thâu!
3. Lỡ Cuộc
Nhìn quanh kẻ lạ người quen
Mòn chân lỏng trán đua chen được gì
Tỉnh ra lỡ cuộc lỡ thì
Nấm mồ cỏ dại xanh rì hỡi ôi!
 
1. Non cao, hạc cũ gầy sương tuyết
Động vắng, mai xưa lặng tiếng lời
 
2. Gọi gió, non xanh, lời lữ khách?
Hỏi mây, biển tím, sóng tha hương?
 
3. Hồ núi phơi tâm, tình cố quận
Hồng đào nở nụ, nghĩa nhân gian

No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...