Sunday, November 14, 2021

Khải Tĩnh 7

 Người đi dệt mộng phù hoa
Mưa rơi ngõ quạnh bóng nhòa trong sương
Tình xưa hoen lạnh cuối đường
Tàn canh nguyệt tận Vô thường là đây.
 
Cửa chùa liễn đối không tên
Bút văn rỗng ngữ chớ nên diễn tuồng
Hạnh tu cần một chữ buông
Cớ chi môi mép ngôn suông lắm trò.
 
Tâm trung ẩn ngọc thiên kim
Hỏi chàng cùng tử vọng tìm nơi đâu
Tháng năm nước chảy qua cầu
Cuối đường ngoảnh lại mái đầu bạc phơ.
 
Đại Bi Mộc Trầm
Ham vui chút xíu cõi người
Ngờ đâu lạc mất nụ cười trong ta
Gót hồng hoại sắc màu da
Mắt xanh lấm bụi, khói sa hoen tròng
Thói đời nghĩa nhạt tình vong
Gom sầu nhân thế, thả dòng sương mơ
Gió chao rều sóng rạp bờ
Lễnh bèo, rã, tấp, lật lờ phiêu linh
Bợt trăng khẽ vởn bóng hình
Bè lau vô định, dặm trình chênh lung
Cố quê thăm thẳm miên trùng
Bát phong bỉ ngạn, biệt tung lối về
Tấm thân mỏi rạc nhiêu khê
Lém nhơ danh đốm, bợn mê tục huyền
Đèn khuya chạnh trĩu ưu phiền
Nam kha dệt mộng, lạnh miền chiêm bao
Tưởng tri, ái, vọng, buộc, rào
Gỡ từng chấp niệm ném vào trời mây
Hoa rơi bến nhớ vơi đầy
Nhựa cành níu lá, lắt lay, héo, giòn
Tuổi chiều gậy trúc lên non
Gặn lòng tự vấn: mất, còn được chi ?
Chợt nghe đá cỏ thầm thì...
Khổ đau diệu chất đại bi mộc trầm
Tuế hàn, trưởng tuệ cao lâm
Tuyệt hương tụ bởi vết dằm trong tim.
 
Gót quạnh tiêu du cuộc lữ bồng
Dặm trần viễn xứ lãm sầu đông
Lên non ngủ bụi triền mây biếc
Về rú nằm sương liếp cỏ hồng
Gió lộng tàn y, thân lạnh buốt
Trăng mờ cổ kính, mắt hoen nồng
Hơ tay đụn lửa, khơi niềm nhớ
Ngẫm lại lời xưa, ấm cõi lòng.
 
Hồng trần thăm thẳm lặng lờ trôi
Thoáng chốc già nua tóc bạc rồi
Bụi cát tiêu phương cay khóe mắt
Gió sương huyễn xứ lạnh bờ môi
Danh hoa bách tuế: bèo mây khói!
Mộ địa thiên thu: cốt bột vôi!
Sinh tử vô thường, sầu ái ngã
Trầm mê túy mộng, tiệt lai hồi.
 
Cuộc lữ, gót ta bà
Cố xứ biệt mù sa
Mưa rơi bờ mộng trắng
Núi thẳm lạnh tình ta.
 
Gió lùa ngõ trúc lạnh then sương
Dáng cũ mờ xa khuất nẻo đường
Ngọn nến tàn canh, hiu hắt bóng
Lư trầm vỡ nụ, nhạt nhòa hương
Trăng soi mái cỏ, lời kinh thoảng
Khói quyện triền mây, tiếng kệ vương
Huynh đệ chén trà tình nghĩa nặng
Bao năm biền biệt vẫn hoài thương.
 
Lau cỏ sương giăng bạc trắng sầu
Sơn liêu ngõ vắng khuất ngàn dâu
Gió lay giậu khói, hoa phai sắc
Bóng ngã thềm rêu, nắng nhạt màu
Cửa trúc sương len tình nặng trĩu
Hiên mây khói quyện nghĩa dầy sâu
Thi đình tải đạo lời nguyên thủy
Văn bút vô ngôn, nghĩa nhiệm mầu.
 
Bóng chiều rêu phủ lạnh tà dương
Cành trúc khẽ lay cảnh thị thường
Đỉnh gió triền mây, mờ nhạt nắng
Am tùng giậu khói, trắng mù sương
Hoa rơi chái sách mèo say ngủ
Nước chảy khe rừng khỉ vọc chường
Sóc nhỏ thập thò, chôm quả mọng
Núi rừng man mác một niềm thương.
 
Rừng sâu tĩnh lặng nét thu sơ
Đôi cánh cửa tùng chỉ khép hờ
Thiền thất lối vào lau lách trắng
Trúc am ngõ đến khói sương mờ
Trên bàn, sóc nhỏ say văn bút
Dưới nến, mèo con ngủ áng thơ
Giun dế tự tình sầu núi quạnh
Triền mây khẽ lẻn giọt trăng mơ.
 
Mưa rừng khẽ đọng hạt cô liêu
Gió rít từng cơn lạnh cuối chiều
Ngõ trúc sương giăng bờ mắt biếc
Cửa tùng khói quyện gót chân xiêu
Người đi thao thức, buồn thương lắm
Kẻ ở bâng khuâng, lặng nhớ nhiều
Đôi ngã biệt trùng, tình vẫn vậy
Lời thơ ý vụn, gửi bao điều.
 
Viễn xứ cô liêu mộng lữ phùng
Mơ về cửa đạo mảnh tình chung
Văn thơ ngày cũ còn vương vấn
Thi bút năm xưa vẫn nhớ nhung
Gió thoảng hoa rơi sầu khóm trúc
Mây len sương đọng lạnh non tùng
Dặm khách mịt mù, miền xa thẳm
Trăng soi cố cựu, nghĩa biệt trùng.
 
Trần thế cô liêu đến tận cùng
Ưu tư dằng dặc nỗi mông lung
Am mây heo hút mưa buồn bã
Giun dế nỉ non tiếng não nùng
Núi thẳm tình xưa xa vạn lý
Rừng sâu nghĩa cũ biệt muôn trùng
Sương khuya đọng hạt vầng trăng lạnh
Lời thơ nhen nhúm, lửa bập bùng.
 
Cô miên đốm mộng trường
Tỉnh thức chẳng sầu vương
Phiêu hốt miền sơn lĩnh
Tịch nhiên cõi Phật đường
Đạo thiền tâm kỉnh pháp
Phạm hạnh đức lưu hương
Mật độ mười phương giác
Chân như tuệ khế thường.
 
Canh sầu đọng hạt thu sương
Lạnh miền sơn dã, hoen đường cổ xưa
Có chăng là đốm duyên thừa
Khơi tình miên viễn chiều mưa nhớ người.
 
Bãi bờ viễn mộng tưởng tri
Dựng muôn lầu cát hữu vi thế trần
Để chiều sóng bạc phù vân
Cuốn tình hoa đốm tan dần trùng dương.
 
Kiếp người sao cứ mãi loay hoay?
Va víu thêm chi đến mệt nhoài
Danh vọng như sương lùa ngõ trước
Tiền tài tợ gió thoảng hiên ngoài
Mây bay qua núi tình thăm thẳm
Nước chảy lơi dòng nghĩa lạc loài
Bia đá tích nhơ hằn tuế nguyệt
Tiếng lời thiên cổ vẫn còn hoài.
 
Sợi nắng chơi vơi lạc cuối chiều
Rơi vào khoảng lặng nỗi cô liêu
Tình không ươm lửa lời thơ lạnh
Sương chẳng tụ cành lá cỏ xiêu
Người đã neo đò bờ Nguyệt Thủy
Ta còn khua nước bến Vân Tiêu
Trùng miên sóng gợn vô tận ý
Se sắt phong thu gợi nhớ nhiều.
 
Mải mê giữa chốn chợ triền
Để tâm hoen lấm bụi phiền đã lâu
Nay về ẩn chốn non sâu
Bợn nhơ rũ sạch đượm màu uyên nguyên.
 
Mưa rừng lay vỡ giấc đông miên
Khẽ rớt thềm mây giọt mộng triền
Lều cỏ sương giăng mờ trước ngõ
Phên tranh gió thoảng lạnh ngoài hiên
Biển đời sóng lặng tâm an định
Văn bút trăng soi đạo tịch nhiên
Đã nguyện chôn mình nơi góc núi
Nói gì thương nhớ với ưu phiền.
 
Vần thơ gợi nhớ nỗi sầu vương
Dư ảnh tàn tro ủ mộng trường
Viễn xứ gió lay hồn lữ khách
Cô thôn khói quyện bóng tà dương
Đèn khuya lay lắt bờ mây thẳm
Trăng lạnh chơ vơ giọt lệ hường
Mưa có xua tan niềm nắng hạ
Để tình hoa cỏ đọng thu sương.
 
Chong đèn hiu hắt, ánh trăng nhòa
Núi lạnh canh chầy khẽ xuýt xoa
Gió thoảng hiên mây sầu ngõ trúc
Sương len giậu khói nhạt màu hoa
Hiểu đời ấm lạnh nhân tình bạc
Thấu lẽ trắng đen thế sự ngoa
Nặng nhẹ tiếng lời thôi dính mắc
Thị phi vô ngã, ngẫm...cười xòa.
 
Tai ương và dịch bệnh
Là số mệnh nhân sinh
Hay vòng xoay tạo hóa
Mà tận cùng điêu linh
Giữa vô vàn thống khổ
Tiếng nấc nghẹn bờ môi
Trái tim đau rỉ máu
Giọt lệ sầu đơn côi
Chia ly không tiễn biệt
Mưa rơi lạnh cuối đường
Vô thường ôi khắc nghiệt
Phủ trắng niềm tan thương
Vẫn biết đời giả mộng
Thân tứ đại hợp thành
Mà nghe lòng buốt lại
Tử sinh nghĩ sao đành
Sau mưa trời trở nắng
Dịch bệnh sớm tiêu trừ
Bình an năm tháng cũ
Nguyện ước sẽ viên như.
 
Có chàng ẩn sĩ chốn non không
Ngắm hạt miên du vỡ sắc hồng
Hiểu đạo biết tình làn khói mỏng
Nhìn tâm thấy cảnh giọt sương trong
Đâu màng hư thực trò dâu bể
Chẳng bận tụ tan chuyện cõi lòng
Lều cỏ tịch nhiên trần mộng lãng
Nước mây hữu hạnh ánh trăng lồng.
 
Tuế nguyệt ai gieo tố mộng sầu
Để tình phút chốc hóa nông sâu
Nhụy hoa mật ngọt bao hầm bẫy
Ngữ sắc ngôn thanh lắm móc câu
Thế sự đảo điên nhòa nắng sớm
Thị phi tráo trở lạnh canh thâu
Chuyện đời hư thực không thành có
Chẳng sợ quả nhân, nghiệp lút đầu.
 
Những người con Phật, đi vào tâm dịch
Nhem lửa yêu thương, sưởi ấm ngày giông
Khoác áo blouse, màu trắng trong quãng đại
Dấn thân phụng hiến, chẳng chút phiền lòng
Tiếp nối tinh thần quê cha đất tổ
Phật giáo đồng hành, vẹn tình cố hương
Dòng máu đại bi ngàn đời cuộn chảy
Trái tim mật hạnh nào ngại khê trường
Hơi thở niềm tin, tải truyền nhựa sống
Nụ cười hi vọng, thắp sáng trời thơ
Tuyến đầu lặng lẽ kề vai tác chiến
Khổ nhọc trăm bề mỏi mệt làm ngơ
Rồi mai Sài Gòn bình yên trở lại
Ta hẹn gặp nhau quán cốc thưởng trà
Nhìn nắng hoàng hôn chiều buông lối cũ
Chờ phố lên đèn ngắm đợi người qua.
 
Trăng treo đầu núi tịch liêu
Khói vờn lũng quạnh bồng phiêu cuộc hề
Đời tu chẳng ngại nhiêu khê
Độc hành cô lữ như tê một sừng.
 
Đất trời đọng giọt cô liêu
Khói mây thân thế ít nhiều hư hao
Trần mê ảo vọng thuở nào
Nguyện như bọt nước tan vào bể dâu.
 
Góc phố vắng, then cài cửa đóng
Ngõ chợ buồn, kẻ hóng người qua
Cách ly phong tỏa mọi nhà
Giữa vùng tâm dịch nhận ra điều gì
Giản đơn thở là khi hạnh phúc
Hồn nhiên cười là lúc an khang
Quý nhau ở nghĩa xóm làng
Cơm rau hơn cả bạc vàng cao lương
Đồng khắc phục tai ương nghịch mệnh
Cùng đẩy lùi dịch bệnh chướng duyên
Sài Gòn sẽ lại bình yên
Sau mưa trở nắng hóa miền thiên thanh
 
Gió sương lạnh, len niềm mệt mỏi
Trăng nước buồn, thấm nỗi cô liêu
Trà khuya trăn trở đã nhiều
Vẫn còn thổn thức bao điều cố nhân
Lời thơ cũ, gieo vần mong nhớ
Tiếng đàn xưa, dệt mớ yêu thương
Tri âm cách biệt trùng dương
Ảnh trầm hàn thủy tiêu tương bạc đầu
Dẫu năm tháng, đốm sầu phai bóng
Mặc thời gian, hoa mộng nhạt hình
Duyên tàn cũng lẽ phù sinh
Trách chi tuế nguyệt vô tình đổi thay
Xin góc núi, hang mây diện bích
Khép cửa tùng, chốt xích ẩn cư
Lập tâm thắp lửa đại từ
Bồ đề khai giác, huyễn hư liễu tường.
 
Khơi nỗi nhớ, trà khuya thức trắng
Gợi niềm thương, men đắng ủ say
Huyễn tình dệt giấc mộng dài
Mơ chi bóng nguyệt gót hài sầu miên
Quăng thân thế qua miền dư ảnh
Gói duyên trần vào mảnh hư tâm
Sát na bợn chút mê lầm
Mà nghe trời đất lạnh câm cuộc về
Phẩy bút mực, thơ đề thạch ải
Chèo bè văn, đạo tải hà phương
Tàng kinh mật nghĩa miên trường
Ngữ ngôn lách cách vỡ sương ảo huyền.
 
Muôn sự nhân gian rối nhiễu phiền
Bỏ hình bắt bóng khổ sầu miên
Mò trăng đáy nước, trần hư huyễn
Vẽ khói trên sương, mộng ảo huyền
Hữu ý hoa rơi thềm cửa Phật
Vô tình hương thoảng mái am thiền
Cổ lai thân thế trường miên lạc
Lãng tử hồi đầu đạo nhất viên.
 
Viễn thế dặm trần gót tử sinh
Châu thân rời rã buốt hàm tình
Đôi khi tủi phận đời duyên bạc
Lắm lúc thẹn lòng số mệnh khinh
Quá khứ móc meo huyền ảo ảnh
Tương lai mù mịt mộng hư linh
Thiên nhai rũ áo phong trần khách
Khép lại vần thơ vạn lý trình.
 
Nước mây mộng ảnh đốm phù trầm
Sương khói huyễn tình buốt lạnh câm
Núi thẳm khẽ khơi vầng nguyệt đức
Hang sâu lặng khắc mảnh băng tâm
Pháp như lôi vũ nào hoen nhớp
Đạo tợ tuyết liên chẳng bợn lầm
Tuế lĩnh bát phong thiên địa ngạo
Thạch đầu hư vọng hải triều âm.
 
Nhất thanh viễn thế tiếu sơn đình
Ngạo khúc vô thường cợt tử sinh
Vẫn biết phù vân tam giới mộng
Lại mơ phong nguyệt tứ phương tình
Yên hà sương khói sầu nhân ảnh
Cổ độ nước mây lạnh bóng hình
Tri kiến chập trùng bao ảo vọng
Tro tàn tưởng thức hóa hư linh.
 
Viễn xứ sương khuya đọng gót hài
Y sờn gió lạnh buốt bờ vai
Tàng kinh, thiền ngữ luôn trăn trở
Mật hạnh, đạo tâm vẫn miệt mài
Nhớ lại thềm xưa chờ nắng tắt
Mơ về núi cũ ngắm mưa bay
Đệ huynh pháp lữ tình vô lượng
Cốt nhục keo sơn nghĩa tháng ngày.
 
Nhất bát tam y cửa Phật nương
Tăng nhân tự cổ liễu vô thường
Chợ đời ảnh sắc nào mê luyến
Lầu các ngôn tình chẳng lụy vương
Ước muốn trăm năm, hòa cát bụi
Mong cầu một kiếp, hóa tro xương
Trần lao khổ ách tam thiên mộng
Huyễn thế phù sinh nỗi thống trường!
 
Có những đêm buồn nhớ ánh trăng
Nơi lều hoa nhỏ khói sương giăng
Tình Thầy kinh pháp, ân vô lượng
Nghĩa đệ văn thi, lửa hữu hằng
Lý đạo thượng cầu, duyên ẩn sĩ
Nhân tâm hạ hóa, chí sơn tăng
Xuất trần đâu ngại đời dâu bể
Đại nguyện sá gì cách trở ngăn.
Cuộc lữ mù phương gió bụi vờn
Hành vân vạn lý biệt trùng sơn
Nhìn đời hoa lệ tâm không đổi
Sống cảnh gian lao chí chẳng sờn
Đất khách tận cùng niềm quạnh vắng
Quê người sâu thẳm nỗi cô đơn
Trà khuya ngồi ngắm trăng hàn xứ
Sương ướt tăng bào lạnh buốt hơn.
 
Sức nhược thân gầy, tóc bạc sương
Thịnh suy tuế nguyệt, lẽ vô thường
Đời như nắng hạ lò nhen lửa
Đạo tợ hoa xuân gió thoảng hương
Cuộc thế mộng trần trăng đáy nước
Dung nhan huyễn sắc ảnh trong gương
Phàm tâm nhát cuốc vùi chân núi
Pháp lữ muôn đời chí nhất phương.
 
Trần thế dệt chi giấc nguyệt hường
Để sầu bến nước mộng tiêu tương
Người đi trăn trở lời ly biệt
Kẻ ở trọc trằn nghĩa vấn vương
Cạn chén trà khuya khơi nỗi nhớ
Gieo vần thơ muộn gợi niềm thương
Biến kinh phúc chúc đời suôn sẻ
Cửa đạo tình ta nguyện hóa sương!
 
Mộng lĩnh tiêu du gót bụi trần
Thiên nhai chiết bút, ẩn sơn vân
Ướp trà cổ nguyệt chờ tri kỷ
Ủ nhụy tuyết liên đợi cố nhân
Vẫn nhớ tình xưa sâu vạn trượng
Nào quên nghĩa cũ nặng ngàn cân
Hẹn nhau vượt ách trầm sinh tử
Bè cỏ qua bờ, liễu huyễn, chân!
 
Mộng thuyết hý đàm dụng ý sâu
Mê ngôn huyễn ngữ, cổ thiên sầu
Chợ đời lãng tử say phong nguyệt
Nẻo tục giai nhân đắm bể dâu
Cửa đạo gìn tâm, không ước muốn
Am thiền giữ niệm, chẳng mưu cầu
Thế tình bát nháo ngàn xưa vậy
Un khói vào sương mắt đục ngầu!
 
Chẳng biết nơi nào chốn lập thân
Y sờn gót mỏi ngại phong trần
Tầm long trích huyệt còn chờ mãi
Hạ thổ trấn sơn cứ hẹn dần
Mộng mái am tranh, đời dị giản
Mơ lều hoa cỏ, đạo thanh bần
Khơi niềm tự sự cùng trăng nước
Hữu ý vô ngôn, nặng nghĩa nhân.
Trở trăn một giấc mộng trường
Chén trà cô lữ, canh sương lặng thầm
Đời tu nhặt chữ soi tâm
Chợt đâu hiển hiện dư âm bóng hình!
 
Giông bão mù phương, tổ vỡ đàn
Chạnh buồn viễn xứ, nỗi quan san
Tìm về chốn cũ, khơi dòng lệ
Ngắm lại cảnh xưa, thắt ruột gan
Hoa cỏ chơ vơ, sầu héo úa
Khói mây hiu hắt, lạnh điêu tàn
Đệ huynh tình nghĩa, đời muôn hướng
Chí đạo thượng cầu, chẳng thở than!
 
Trăm mối sầu vương bởi tại vì
Niệm trần chấp thủ vọng cuồng si
Nhân tình xa cạ bao cay nghiệt
Thế thái xô bồ lắm thị phi
Luồn cúi mưu danh, tâm tủi nhục
Lọc lừa trục lợi, khổ sầu bi
Chợ đời vốn dĩ trò hư ngụy
Tục sự tuồng hề, mặc kệ đi!
 
Trà khuya viễn xứ trở trăn gì
Có lẽ nặng lòng nghĩa cố tri
Mái lá chùa xưa luôn gợi nhớ
Vần thơ núi cũ mãi hoài ghi
Hoa sầu trụi úa, quay lưng bước
Tình cỗi héo khô, ngoảnh mặt đi
Thương, ghét, giận, hờn, thôi bỏ lại
Khứ lai vô sự, gót nhàn vi.
 
Bỏ lại xuân thanh ẩn cổ lâm
Tiệm tu, sám tạ, hối mê lầm
Ái hà vô lượng sầu thiên xích
Khổ hải hằng sa lụy vạn tâm
Nguyệt ảnh, bóng nhòa trần viễn lạc
Hoa tình, hương nhạt mộng miên trầm
Cô phong thiền sĩ ươm mầm đạo
Thi khú vô thanh vọng hẩu âm
 
Trà không phải rượu vậy mà say
Có phải lòng ta muốn giải bày
Xỏ sợi chỉ tình, khâu nỗi nhớ
Chuốt nan mành đạo, thắt niềm vay
Mảnh trăng tiền kiếp mây che khuất
Thân thế lai sinh vết đọa đày
Khổ ải trầm khê nào đáng sợ
Chỉ sầu nhân thế quá bi ai!
 
Tam sinh bất toại cổ miên sầu
Cạn chén vong tình ẩn núi sâu
Phong ấn ngàn năm nơi đáy mộ
Hàn tâm triệu kiếp chốn nương dâu
Tim khô hóa đá trơ canh vắng
Máu nhạt hòa xương lạnh bóng thâu
Nhân ngã thị phi xin đoạn tuyệt
Chuyện đời con nước chảy qua cầu!
 
Nhẹ nhàng tuyệt thế gót nhàn vân
Thiên sắc dung nhan nét nguyệt thần
Thanh khiết như sương, lòng thoát tục
Dịu dàng tợ nước, dáng ly trần
Ái tình chẳng lụy, tâm hòa ý
Ố dục nào vương, đạo giữ thân
Dị giản hồn nhiên, ươm ngữ hạnh
Nụ cười nhược mộng đẹp vô ngần.
 
Phương trời vô định biết về đâu
Chẳng lẽ lang thang tới bạc đầu
Một kiếp ba đào trần viễn mộng
Vạn đời kiềm tỏa khổ miên sầu
Xé màn tục lụy, vùi non thẳm
Cắt sợi ái tình, quẳng vực sâu
Sỏi đá chông gai nào ngại bước
Tăng nhân gánh đạo chí ngàn dâu.
 
Trần gian muôn sự vốn vô thường
Chấp thủ thêm chi cõi mộng trường
Danh vọng tiền tài như bọt nước
Lợi quyền chức tước tợ hơi sương
Lánh đời học đạo, quên tên tuổi
Ẩn núi tu hành, bỏ sắc hương
Cát bụi trăm năm hoàn cát bụi
Lời thơ thiên cổ, hỏi ai thương!
 
Thiên lý độc hành, biệt cố hương
Nhân gian ai hiểu nỗi sầu tương
Bao mua lá rụng còn trăn trở
Mấy độ trăng tàn vẫn vấn vương
Đất khách ngẩn ngơ, nào biết lối
Xứ người lạ lẫm, chẳng quen đường
Chén trà núi cũ bao hoài niệm
Có lẽ đời ta mãi nhớ thương!


Ngày vui, tháng lặng, năm an.

Gửi Cố Nhân

Cũng ngần ấy năm rồi chưa gặp lại, nhớ năm đó ta cùng người tung vó ngựa thỏa chí bình sinh, ruổi rong thảo nguyên đến tận cùng biên cương đại mạc, vun kiếm đề thơ, cạn chén hồ trường sinh tử chi giao, ngạo khí ngất trời.

Nhớ năm đó phía tây Hoàng Thành hoa lệ, trên bến Phong Kiều mở hội hoa đăng, thuyền hoa tấp nập kết mộng se tình, bất giác ta và người hiểu rằng tam sinh như mộng, tơ nguyệt mong manh, ái tình lụy khổ, chẳng hiểu vì sao thiên hạ vương mang.

Nhớ năm đó ta cùng người dựng lều tranh thanh nhã bên đồi tịch dương thơ mộng, làm nơi uống trà đàm đạo vui với nắng sớm mưa chiều, chẳng nhọc lòng toan tính chuyện thế gian. Ngờ đâu tai trời ách nước, dịch bệnh hoành hành, sự bình yên ngày nào nhường chổ cho sự lo âu chiếm ngự, Hoàng Thành hoa lệ ngày nào giờ đẫm màu tang thương thống khổ

Nhớ năm đó ta cùng người vượt qua cơn bĩ cực khổ ải thế gian, kể từ ngày đó người về Phương Nam biền biệt mù sương vạn lý, còn ta ở lại cùng nỗi buồn trôi dần theo năm tháng.

Nhiều khi trà khuya thức trắng, trở trăn lời Phật thuở xưa: " các pháp hữu vi đều vô thường". Nhưng càng ngẫm lại càng buồn vì văn tự cô đọng, lý nghĩa mù sương, căn tánh thui chột. Bạc đầu, gối mỏi mắt mờ mà chẳng tỏ ngộ điều chi trong tàng kinh mật ngữ.

Rồi ta từ giã nơi gắn bó thân thương, đốt thơ chôn kiếm bẻ đàn, khoác áo sa môn, sống đời phạm hạnh vào nơi thâm sơn tịch cốc. Có lần nằm bên hiên tranh nghe sương vỡ ta mới chợt nhận ra vô thường từ đó, không còn là khái niệm ngữ ngôn thời gian, chỉ là sát na sinh diệt tuần hoàn, tâm cảnh nào có ngoài thành, trụ, hoại, không. Ta gượng ngồi dậy mà lòng bình an khoan khoái đến lạ kỳ.

Tâm hoa bút nguyệt đề thơ gửi người, mực nghiên đã cạn. Khép lại lời, xin cầu chúc người nơi xa ấy, mãi an yên giấc hồng hoa mộng. Nếu hữu duyên về lại chốn cũ nơi xưa, hãy đi về hướng tây cách Hoàng Thành ba dặm là Bích Hải Huyền Sơn mười phương mây trắng, ta sẽ ở nơi đây đợi người, hẹn ngày hạnh ngộ.

Bích Hải Huyền Sơn

Ngày buồn, tháng nhớ, năm thương...

Gửi Cố Nhân

Trong vô lượng kiếp ta với người đã từng là tri kỷ, dưới ánh trăng trong vườn đào cách hoàng thành hoa lệ ba dặm, ngồi bên nhau ta không ngần ngại bộc bạch hết tâm tư sâu kín nhất từ đáy con tim mình.

Trong vộ lương kiếp ta với người đã từng là tri âm, trong cơn gió thu giữa rừng trúc, ngồi bên nhau ta ngẫu hứng tấu khúc Từ Bi Âm, lúc trầm hùng như ngọa tùng cao sơn, lúc nhẹ nhàng như tuyết liên lưu thủy, cầm âm tuyệt sắc u nhã cô liêu tận cùng khiến người phải rơi lệ.

Trong vô lượng kiếp ta với người đã từng là tri ẩm, trong vườn sen mùa hạ, hứng từng giọt sương khuya còn đọng lại trên lá, pha một bình trà cổ nguyệt hoa tình, ngồi bên nhau vịnh cảnh đối thơ thưởng trà, chẳng màng đến nhân ngã thị phi thế trần.

Trong vô lượng kiếp ta với người đã từng là tri đạo, có lần hữu duyên nghe được lời kinh xưa làm châu thân rúng động, suốt bao ngày tháng ròng rã, ta với người trở trăn tầm lý đạo, đâu là nguyên nhân dẫn đến khổ, đâu là con đường diệt khổ. Ngờ đâu ngữ ngôn sương trắng dặc dày, tri kiến chập trùng tưởng vọng lênh đênh, kiếp người hạn định, vô thường hiện hữu rồi ta và người thất lạc nhau trong vòng sinh tử.

Trong vô lượng kiếp chắc hiếm khi ta cùng người tương ngộ. Có lúc vì đắm chìm trong ngũ dục bất thiện, ta đọa lạc trong đường ác đạo; rồi có lúc nhờ thiện nghiệp tích lũy, trổ quả phúc lạc nhân thiên, rồi chấp thủ cuồng mê lại lạc lầm nẻo cũ, cứ như thế mà mãi trôi lăn trong vòng sinh tử.

Trong vô lượng kiếp cứ luân hồi luẩn quẩn, ta ngán ngẫm sinh tử, đời này góc núi am tranh, ẩn mình trong rừng phong cách hoàng thành ba dặm, nếu hữu duyên mong ngày tương ngộ, ta với người cạn chén trà tri tình, ngồi ôn lại lời kinh xưa mà vô lượng kiếp còn bỏ ngỏ.

Tình vạn hữu gửi mười phương mây trắng...

Lãng Vân Am


Câu nói kinh điển: "nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi thiếu vắng tình thương", quả đúng như vậy.

Ai trong chúng ta đã từng ôm ấp nỗi niềm khó nói thành lời hay những tổn thương chỉ muốn nén thật chặt, thật sâu vào lòng. Vết xước nào cũng để sẹo, buồn đau nào cũng có dư âm, con tim nào cũng đôi lần lỗi nhịp.

Rồi bỗng một ngày ta nhận ra tất cả chỉ là quá khứ, là tro tàn kí ức, là dĩ vãng tàn phai...mà ta nặng gánh đeo mang trên bước đường nhân thế.

Rồi bỗng một ngày ta nhận ra chỉ vì nỗi đau năm đó, mặc tình để lòng mình giếng cạn cằn khô, rồi hờ hững trước nỗi đau người khác.

Rồi bỗng một ngày ta nhận ra chỉ vì nỗi đau năm đó, mặc tình để con tim trơ lì hóa đá, rồi vô tâm trước sự mất mát của người khác.

Rồi bỗng một ngày ta nhận ra hạnh phúc chính là sự cho đi chứ không phải là nắm giữ.

Rồi bỗng một ngày ta nhận ra nơi tình thương hiện hữu là nơi bóng đêm lạnh lẽo không còn.

Giá như ngày ấy hiểu ra được dăm ba điều như thế này thì sẽ không có đổ vỡ, sẽ không có tiếc nuối và sẽ chẳng có ai buồn ai, giận ai. Có lẽ đi qua nhân thế này chỉ cần một trái tim đủ lửa yêu thương để sưởi ấm mọi cõi lòng cô đơn lạnh lẽo, là cũng đủ lắm rồi.

Giữa trưa hè nóng nực
Ta cần cơn gió mát
Như người cần yêu thương
Giữa cõi đời lạnh lẽo...


NGỘ

Sinh tử đôi khi lại không đáng sợ, mà chính nỗi cô liêu độc hành nhân thế mới thật sự đáng sợ, mới có cái gọi là hữu thủy vô chung.

Cuộc đời vốn dĩ không khổ nhưng chỉ vì dục vọng quá nhiều nên phiền não bủa vây, chất chồng, mới có cái gọi là Khổ Khổ.

Thế thái nhân tình vốn dĩ không phức tạp, nhưng chỉ vì chấp niệm nhiều thứ nên không thể buông xuống được, mới có cái gọi là chấp mê bất ngộ.

Nếu đi qua nhân thế mà tình chẳng vương, nghĩa chẳng nặng, khổ chẳng đau, thương chẳng lụy, ngọt chẳng mặn, chua chẳng chát, đắng chẳng cay...thì thật sự là nhàm chán quá đỗi?

Hôm nay, vay đời chút khổ đau, cay chát, hăng nồng như là tư lương trên bước đường nhân thế, nguyện ngày sau trả lại cho người sự bình an, ngọt bùi, dịu êm sâu thẳm tận đáy con tim.

No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...