TUỆ
SỸ – NHỮNG ĐIỆP KHÚC CHO DƯƠNG CẦM
Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt
Rồi thời gian ửng đỏ đêm thiêng
Đêm chợt thành mùa đông huyễn hoặc
Cánh chim bạt ngàn từ quãng Vô biên.
2.
Từ đó ta trở về Thiên giới,
Một màu xanh mù tỏa Vô biên.
Bóng sao đêm dài vời vợi
Thật hay hư, chiều nhỏ ưu phiền.
Chiều như thế, cung trầm khắc khoải.
Rát đầu tay nốt nhạc triền miên.
Ôm dấu lặng, nhịp đàn đứt vội.
Anh ở đâu, khói lụa ngoài hiên?
3.
Trên dấu thăng âm đàn trĩu nặng
Khóe môi in dấu hận nghìn trùng
Âm đàn đó chìm sâu ảo vọng
Nhịp tim ngừng trống trải thời gian
Thời gian ngưng mặt trời vết bỏng
vẫn thời gian sợi khói buông chùng
Anh đi mãi thềm rêu vơi mỏng
Bởi nắng mòn cỏ dại ven sông.
4.
Ta bay theo đốm lửa lập lòe
Chập chờn trên hoang mạc mùa hè
Khung trời nghiêng xuống nửa
Bên rèm nhung đôi mắt đỏ hoe
Thăm thẳm chòm sao Chức nữ
Heo hút đường về.
5.
Chiều tôi về em tô màu vàng ố
Màu bụi đường khô quạnh bóng trăng
Đường ngã màu bóng trăng vò võ
Em có chờ rêu sạm trong đêm?
6.
Màu tối mù lan vách đá
Nhớ mênh mông đôi mắt giã từ
Rồi đi biệt Để hờn trên đỉnh gió
Ta ở đâu? Cánh mỏng phù du.
7.
Chung trà đã lịm khói
Hàng chữ vẫn nối dài
Thế sự chùm hoa dại
Ủ mờ con mắt cay.
8.
Công Nương bỏ quên chút hờn trên dấu lặng
Chuỗi cadence ray rứt ngón tay
Ấn sâu xuống ưu phiền trên phím trắng
Nửa phím cung chõi nhịp lưu đày.
9.
Đôi mắt cay phím đen phím trắng
Đen trắng đuổi nhau thành ảo tượng
Trên tận cùng điểm lặng tròn xoe
Ta gửi đó ưu phiền năm tháng.
10.
Cửa kín, chòm mây cuốn nẻo xa
Ngu ngơ đếm chữ, mắt hoa nhòa
Tay buồn vuốt mãi tờ hương rã ;
Phảng phất mưa qua mấy cụm nhà.
11.
Ve mùa hạ chợt về thành phố
Khóm cây già che nắng hoang lương
Đám bụi trắng cuốn lên đầu ngõ
Trên phím đàn lặng lẽ tàn hương
Tiếng ve dội lăn tăn nốt nhỏ
Khóc mùa hè mà khô cả đại dương.
12.
Đạo sỹ soi hình bên suối
Quên đâu con mắt giữa đêm
Vội bước gập ghềnh khe núi
Vơi mòn triền đá chân chim.
13.
Ô hay, giây đàn chợt đứt.
Bóng ma đêm như thật.
Cắn đầu ngón tay giá băng.
Điệp khúc lắng trầm trong mắt.
Rồi phím đàn lơi lỏng;
Chùm âm thanh rời, ngón tay rát bỏng
Chợt nghe nguyệt quế thoảng hương
Điệp khúc chậm dần theo dấu lặng.
14.
Đêm sụp xuống
Bóng dồn một phương
Lạnh toát âm đàn xao động
Trái tim vỗ nhịp dị thường.
Ngoài biên cương
Cây cao chói đỏ
Chiến binh già cổ mộ
Nắng tắt chiến trường
Giọt máu quạnh hơi sương.
15.
Một ngày chơi vơi đỉnh thác;
Nghe bồn chồn tiếng gọi hư không.
Giai điệu nhỏ dồn lên đôi mắt
Mặt hồ im ánh nước chập chờn.
Mặt hồ im, tảng màu man mác.
Ảnh tượng mờ, một chút sương trong.
Quãng im lặng thời gian nặng hạt ;
Tôi nghe đời trong tẩu khúc Thiên hoang.
16.
Phủi tay kinh nỗi đảo điên
Tôi theo con kiến quanh triền đỉnh hoang.
17.
Hơi thở ngưng từ đáy biển sâu
Mênh mông sắc ảo dậy muôn màu
Một trời sao nhỏ xoay khung cửa
Khoảnh khắc Thiên hà ánh hỏa châu.
18.
Tiếng xe đùa qua ngõ
Cành nguyệt quế rùng mình
Hương tan trên dấu lặng
Giai điệu tròn lung linh.
19.
Bóng cỏ rơi, giật mình sửng sốt.
Mặt đất rung, Ma Quỷ rộn phương trời.
Chút hơi thở mong manh trên dấu lặng.
Đêm huyền vi, giai điệu không lời.
20.
Theo chân kiến luồn qua cụm cỏ
Bóng âm u thế giới chập chùng
Quãng im lặng Nghe mùi đất thở.
21.
Nỗi nhớ đó khát khao luồn sợi tóc
Vòng tay ôm cuộn khói bâng khuâng.
Uống chưa cạn chén trà sương móc
Trên đài cao Em ngự mấy tầng.
Lên cao mãi đường mây khép chặt.
Để xoi mòn ảo tượng thiên chân.
Ồ, nguyệt quế! trăng mờ đôi mắt.
Ồ, sao Em? sao ấn mãi cung đàn.
Giai điệu cổ thoáng buồn u uất.
Xưa yêu Em xao động trăng ngàn.
22.
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói
Vẫn yêu người từng khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Như trùng dương ngưng tụ ánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta với bắt ngàn sao.
23.
Giăng mộ cổ mưa chiều hoen ngấn lệ
Bóng điêu tàn huyền sử đứng trơ vơ
Sương thấm lạnh làn vai hờn nguyệt quế
Ôm tượng đài yêu suốt cõi hoang sơ.
* Bản dịch Pháp ngữ
http://www.hoadamonline.com/.../un-fil-de-soie-cosmique...
* Bản dịch Anh ngữ
http://www.hoadamonline.com/.../tue-sy-refrains-for-piano...
Nguồn: http://www.hoadamonline.com
Âm
Trầm Tuệ Sĩ
Đặng Tiến
Tuệ Sĩ là bậc danh sĩ cao tăng, đã trọng nhiệm nhiều chức vụ
trong hàng giáo phẩm Việt Nam. Trong và ngoài nước nhiều người biết danh và ái
mộ, qua những trầm luân mà ông chịu đựng non nửa thế kỷ, chúng tôi không nhắc
lại nơi đây, vì ai muốn truy tìm thì rất dễ.
Tuệ Sĩ còn là nhà thơ, nhiều người biết danh, nhưng ít người
được đọc, vì thơ ông ít được phổ biến. Mới đây, trong nước, nhà xuất bản Phương
Đông đã ấn hành tập thơ Những điệp khúc cho dương cầm, song ngữ Việt-Pháp đối
chiếu, do Dominique de Miscault, nữ họa sĩ người Pháp, chuyển ngữ và trình bày,
minh họa, bà gọi là “biểu cảm đồ họa” (expressions graphiques). Trang bên trái
là văn bản Việt-Pháp nối tiếp, trang bên phải là hình cách điệu nhà sư đang
lướt ngón tay trên phím dương cầm.
Sách gồm 23 bài thơ ngắn, trình bày trên 53 trang, khổ vuông 21
x 21 cm, giấy tốt, in đẹp và trình bày trang nhã.
Điều đáng mừng là độc giả Việt Nam và thế giới có dịp tiếp cận
với thơ Tuệ Sĩ, trong niềm đồng cảm nhân loại, qua thi ca và nghệ thuật. Trong
lời tựa, bà De Miscault kể lại:
“Tôi được hạnh ngộ với Tuệ Sĩ và người thân từ mùa xuân 2003.
Chúng tôi đã học tập phơi trải và trao đổi hai thế giới, diễn
dịch những cảm xúc, đồng thời là dấn thân. Tôi không phải phật tử cũng không
phải kẻ tu hành, lại không biết tiếng Việt, nhưng thơ Tuệ Sĩ thì đã gặp đâu đó
tại châu Âu già cỗi. Đó chẳng phải là những khoảng hư không mà các tác gia thần
bí đã trải nghiệm?
Kinh nghiệm phiêu du trong bóng đêm và tĩnh lặng, cũng như những
tâm hồn khắc khoải, vô vọng truy tầm lời giải đáp cho những hy sinh, dù tự
nguyện hay cưỡng chế? ”
Bà tiếp xúc với thơ Tuệ Sĩ nhờ việc lược dịch của một người Pháp
được Tuệ Sĩ duyệt lại. “Tôi cố gắng nắm bắt nội dung qua những hình ảnh, và
không gian sống của Tuệ Sĩ như tôi được trông thấy và đã khai thị cho tôi. Tôi
chọn những từ ngữ và ảnh tượng đơn giản nhất, đã giản lược và tát cạn tối đa
thi pháp để tập trung vào cuộc phiêu lưu thần bí của nhà sư mệt mỏi vì đời sống
và những truy tầm vô vọng…
Vô vọng hay không, vẫn là câu hỏi. Buông thả theo dòng đời.
Dương cầm và tịch lặng là thần giao giữa hai lục địa giữa chúng
tôi.
Nơi đây không còn là hoài cảm hay xúc cảm, mà là phân tích khô
khan cõi dửng dưng.
Tôi hân hoan được tiếp tục chia sẻ, và trong dài lâu tính nhẹ
nhàng tuyệt đối của đời sống.”
Bài tựa này đã được Hạnh Viên dịch ở trang 7, tôi dịch lại để
đóng góp.
Một cơ duyên khác, là với kỹ thuật điện tử hiện đại, toàn bộ
công trình của TS – Dominique de Miscault và nhà xuất bản Phương Đông được đưa
lên lưới, để người đọc, Việt hay ngoại quốc, khắp năm châu bốn biển đều có thể
thưởng lãm. Năm mươi trang giấy không phải là công trình to tát gì, nội dung
cũng không phải chuyện khai sơn phá thạch, nhưng là một sự kiện văn học, như
cơn gió bất ngờ đưa đóa lan rừng ra ánh sáng.
Tuệ Sĩ không phải là người tìm danh vọng, nhất là bằng thi ca.
Ông không tìm độc giả, tìm tri kỷ, tri âm. Ông thừa nội lực để sống an nhiên
trong tịch lặng giữa cõi ta bà. Nhưng thơ ông xuất hiện như vầng trăng ra khỏi
đám mây, như mùi hương bông sứ chợt thoảng vào vườn khuya, là một niềm vui
chung, và cho người lữ khách ngồi lại bên đường, buổi chiều, “cười với nắng một
ngày sao chóng thế… đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan“, câu thơ ngày xưa của
ông mà Bùi Giáng hết lời ca ngợi.
Thơ, thơ gì đi nữa, thì trước tiên phải là ngôn ngữ. Ngôn ngữ
của ai đi nữa thì cũng mang sử tính. Thơ thiền sư làm bằng ngôn ngữ hàng ngày
vẫn vang âm xã hội và lịch sử.
Ví dụ bài cuối:
Bóng điêu tàn Huyền sử đứng trơ vơ
Sương thấm lạnh Làn vai hờn nguyệt quế
Ôm tượng đài Yêu suốt cõi hoang sơ.
Ý nghĩa chính xác của bài thơ là gì ta không nên giải thích chân phương. Nhưng từ ngữ thì rõ ràng là trầm tích đau thương của con người trong lịch sử. Bà De Miscault dịch hay và thoát (xem Trên kệ sách của mạng Da màu). Tôi vẫn táy máy dịch lại xem như góp một nốt đàn vào bản hợp tấu:
La pluie du soir se confond en larmes
Des mythes illusoires
En ruine esseulés,
La bruine givre
Les épaules meurtries de laurier
Serrant la statue
J’aime ô que j’aime les espaces innocents
Cây cao chói đỏ
Chiến binh già cổ mộ
Nắng tắt chiến trường
Giọt máu quạnh hơi sương
(Tr. 34)
A la frontière
Le grand arbre rougeoie
Le soldat vieillit sur la tombe antique
Le soleil éteint la bataille
Le sang se condense en rosée.
Thơ gì, thơ ai, thơ nước nào, trong ngôn ngữ vẫn là một thứ
ngoại ngữ ; người đọc một bài thơ trong tiếng mẹ đẻ là đã dịch bài thơ ấy ra
ngôn ngữ của riêng mình. Gọi là tiếng lòng.
Trong nghề dạy học và việc bình luận văn chương tôi có đôi kinh
nghiệm về việc dịch thuật và thông ngôn này. Gặp những bài thơ Tuệ Sĩ việc
giảng luận có phần trắc trở. Ngôn ngữ vẫn là ngôn ngữ chung là tiếng Việt,
nhưng tương quan giữa người nói và lời nói thì khác nhau. Khi Tuệ Sĩ viết đâu
đó “Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang” thì ông không chỉ nói về màu áo,
cũng không nói về ngọn đồi, mà phản ánh tâm linh trong một thế giới khác. Đưa
lời thơ Tuệ Sĩ vào ngôn ngữ thế tục e dễ thành dung tục.
Thơ bao giờ cũng phản ánh ba tính cách: môi trường xã hội trong
lịch sử ; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời
sống hàng ngày; nhưng ở Tuệ Sĩ đời sống hằng ngày, ý thức và vô thức dường như
đã thăng hoa, thành một siêu thức. Ngôn ngữ do đó cũng siêu thoát, khó bề lý
giải chân phưong và đơn phương.
Đầu thế kỷ XX giới văn học tây phương đưa ra khái niệm “thơ
thuần túy”, và nghệ thuật nguyên chất theo nghĩa của hóa học: thực thể nguyên
chất đối lập với những thực thể tạp chất “impur”, có lẫn lộn nhiều ngoại tố.
Nghệ thuật nguyên chất là kiến trúc của ngôn ngữ: một dạo khúc dương cầm, một
tranh tĩnh vật, một bài thơ đẹp. Người thưởng thức không pha lẫn vào đó những
kỷ niệm, buồn vui riêng tư, nhất là những thành kiến lịch sử, chính trị. Yêu
một chân dung phụ nữ không phải vì nó hao hao giống một người bạn cũ.
Trong nghệ thuật, dân tộc là một tạp chất.
Tôi nghĩ khi Tuệ Sĩ đặt tên Những điệp khúc cho dương cầm, và
làm những bài thơ mô tả tiếng dương cầm, là ông muốn cho tiếng thơ mình trong
trẻo, thuần khiết “trong như tiếng hạc bay qua“. Do đó, bình giải thơ Tuệ Sĩ là
tạo cơ nguy gây tạp âm không phải lẽ và không phải lúc. Bài viết này vẫn mang
tạp âm là ngoài ý muốn của chúng tôi.
Lấy một ví dụ ngoài đề, cho thông thoáng. Nhà thơ Phạm Công Thiện, thời trẻ, có lúc tu tại một Phật Viện Nha Trang. Một hôm anh về chơi với nhà văn Võ Hồng, ở lại mấy hôm, khi về Chùa, anh có thơ:
Cây khế đồi cao trổ hết bông.
Anh tâm đắc thường đọc cho chúng tôi nghe, và chúng tôi hiểu đại khái, nhưng chưng hửng khi nghe Phạm Công Thiện, mười năm sau, tự dịch câu thơ ra tiếng Pháp:
Il fait Tard sur le Chemin
Sept jours après la pluie tombe
En haut
du Temple
L’arbre est le
Défleuri
Chúng tôi đã hiểu chung chung: thứ bảy là trước chủ nhật, cây
khế là cây khế, ngọn đồi là ngọn đồi, nhưng qua bản dịch tiếng Pháp, thì nội
hàm câu thơ không phải chỉ có vậy.
Nhưng nghĩ cho cùng, ai làm sao hiểu hết một câu thơ, kể cả tác
giả?
Và cách tiếp cận thơ Tuệ Sĩ của bà De Miscault biết đâu là cách
hay nhất, như câu tiếng Pháp không biết của ai “la voix du cœur est la voie au
cœur”: lời trái tim là lối đến con tim.
Đọc thơ Tuệ Sĩ. Bằng trái tim.
Màu tối mù lan vách đá
Nhớ mênh mông đôi mắt giã từ
Rồi đi biệt Để hờn trên đỉnh gíó
Ta ở đâu Cánh mộng phù du
Tr. 18
Les ténèbres envahissant les pierres du mur
Immense le souvenir des regards de nos adieux
Et je m’en vais à jamais
Délaissant les chagrins aux cimes de l’ouragan
Où suis-je?
Frêles sont les ailes de l’éphémère
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói,
Vẫn yêu người từ khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Nhưng trùng dương ngưng đọng cánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt trời sao.
Tr 50
Sur mes chagrins enfumés, je revis
L’Amour des hommes à chaque instant de mes songes
Dès l’origine la parole a été retenue
Comme l’océan retient le reflet du printemps en fleur
Des refrains animent mes ailes épuisées
Pour l’Homme, j’ouvre mes mains au firmament étoilé
Theo chân kiến Luồn qua cụm cỏ
Bóng âm u Thế giới chập chùng
Quãng im lặng Nghe mùi đất thở
Tr. 46
Traces de fourmi
Je faufile entre les herbes
Ténèbres des ténèbres
Les mondes s’amoncellent
Silences entre silences
J’accueille la terre respirante.
Thơ Tuệ Sĩ cô đúc, hàm súc, uyên áo. Người đọc không quen cho là
khó hiểu, vì tác giả không đề cập đến một đề tài nào chính xác, không miêu tả
không tự sự. Ngôn ngữ lấp lánh ánh sáng tâm cảm và ngoại gới, trầm tư và huyễn
mộng. Hình ảnh chập chờn, ngôn từ lảo đảo, như những tiếng dương cầm đuổi bắt
nhau, chưa kịp tương phùng đã muôn đời vĩnh quyết.
Thỉnh thoảng, người đọc cảm thấy an tâm trong đôi lời thơ mạch
lạc:
Ngu ngơ đếm chữ, mắt hoa nhòa
Tay buồn vuốt mãi tờ hương rã
Phảng phất mưa qua mấy cụm nhà
Tr. 26
Người Thơ hé mở một thoáng tâm linh, nhưng hình ảnh vẫn mang
tính cách tượng trưng, xa cách, xóa nhòa tâm sự cá nhân, pha loãng tình riêng
vào làn mưa trên mái ngói.
Đôi khi người đọc gặp vài từ ngữ, ẩn dụ trở đi trở lại như những ám ảnh, tạo nên dăm viên đá cuội trên lộ trình cậu bé tí hon, nhưng dễ gì tìm được heo hút đường về.
Bóng sao đêm dài vời vợi
Thật hay hư, chiều nhỏ ưu phiền
Tr. 10
Và thơ, tập thơ mình cầm trong tay, những nốt nhạc, những hàng
chữ “đen trắng đuổi nhau thảnh ảo tượng”. Thơ, tất cả thi ca trên cõi trần này
biết đâu chẳng là ảo giác của ảo giác?
Cần gì để nói thêm về Những điệp khúc cho Dương cầm của Tuệ Sĩ?
Phải chăng là tiếng ve sầu chung thủy, ưu hoài những mùa hạ đã
ra đi?
Tiếng ve trở về,
No comments:
Post a Comment