Sunday, January 9, 2022

04- Red Clift

 

….hồi đầu thế kỷ nào ấy trong thời kỳ gió bụi, trần gian khô hạn và đã có rất nhiều sỏi đá trong trong thức ăn của con người; ở chốn đông người đã từng nghe có người hát như thế này:

hồ trường hề! hồ trường hề!
trời đất mang mang ai người tri kỷ
lại đây cùng ta cạn một hồ trường
hồ trường hề! hồ trường!
ta biết rót về đâu?
rót về phương Đông
biển Đông nổi sóng sinh cuồng loạn
rót về phương Bắc
ngọn Bắc phong cát chạy đá giăng
rót về phương Nam
trời Nam mờ mịt

hát xong lệ tuôn như mưa, trần gian hết khô hạn, khách nghe lòng bồi hồi nuối tiếc, Im lặng dài qua thế kỷ phong ba, thời gian tan chảy trong nghìn trùng, rêu phong cuộc đời.


……lũ trẻ ngày xưa nay chẳng còn nô đùa trên sóng, chẳng còn ai trở về nhìn con sóng bạc đầu năm cũ, như bầy chim bỏ xứ. Năm tháng đó đã làm thay đổi mọi thứ trên dòng trôi của nó, hẳn vậy rồi. Nhưng chẳng phải như vậy, sự thật chẳng phải là như vậy! Nhưng ai sẽ là người có thẩm quyền về sự thật trong mắt ai? Những gì được trình hiện trong ngôn ngữ cần phải được xem xét trong cách thế của một dòng chảy đang đồng điệu cùng đời sống đang dung chứa nó. Mọi thứ đều đang vận động, mọi thứ đều đang trôi chảy, và vì vậy mà mọi thứ đều đang thay đổi. Chính điều đó là không bao giờ thay đổi. Cho nên mọi thứ dù luôn luôn thay đổi cũng là thay đổi trong một trật tự định đoạt cho bản chất thay đổi của nó, và trật tự đó lại là một trật tự bất định.

…..cha trao cho con ngọn đèn dầu, con cầm lấy như cầm ngọn đuốc…. và này con hãy bước đi! Ngọn đèn soi sáng đời con cũng chính là ngọn đèn đã soi sáng đời cha. Nhưng cái mà con sẽ nhìn thấy chẳng phải thứ mà cha đã nhìn thấy. Màu nắng chiếu trên thành Ca Tỳ La Vệ cũng là màu nắng chiếu trong mắt con. Nhưng con sẽ chẳng thể nào hiểu được màu nắng trên thành Ca Tỳ La Vệ.


.....đã bao lần thanh kiếm sắc ngời lên ánh thép, toan một lần định đoạt để đưa vào định mệnh những khốc liệt điêu tàn, song ngập ngừng...cắt, khứa, chặt, chém giữa muôn trùng thế giới vây kín xung quanh những nỗi buồn, tôi và anh trên những điệp khúc úa màu của giai điệu thời gian đã gặp nhau nơi những ngã rẽ khôn cùng trầm lắng của cung đàn lạc nhịp không thể cứu vãn nổi. Và vì vậy không thể nào can đảm đứng lại chờ đợi sự hồi đáo của những tiếng vọng phía bên kia bến bờ quá khứ, quê hương của điệu dân ca, chúng ta buộc lòng phải ra đi. Ra đi ngay trên từng bước chân đi để vừa làm mới cho chính mình vừa trả lời cho chính mình who we really are?


"Huy!

Suốt đời tôi chắc chắn không bao giờ tôi quên được đôi mắt ướt lệ của một nàng ca sỹ mà chúng mình đã nhìn thấy vào một đêm mưa tầm tã trong một phòng trà mờ tối ở Sài Gòn.

Hình ảnh đau buồn lặng lẽ ấy đã ám ảnh tôi suốt những đêm dài âm u ở vùng biển xanh.

Tôi vẫn không quên được một tối cùng ngồi với Huy nơi một quán rượu bên bờ sông Sài Gòn. Đêm ấy, trời làm mưa, trời làm gió…. Mưa phủ kín hết những chiếc tàu. Mưa phủ kín hết những hoài vọng triền miên của tuổi trẻ. Tôi nhìn những chiếc lá ướt mưa, tôi nhìn lên đôi mắt của Huy và tôi thấy đôi mắt đó thật xa xăm, thật u buồn… Trong đêm tối, tôi chợt nghe rõ âm vang đâu đó, giọng hát ru khuya của những nàng ca sỹ yếu gầy. Rồi tôi thấy những con đường Sài Gòn phủ đầy lá vàng. Rồi tôi thấy tuổi trẻ chạy trốn, và những con sông chảy âm thầm về biển…

Tôi đã từ bỏ sông Sài Gòn để trở về biển, tôi về đây, sống biệt lập trên một đồi cao. Những đêm khuya nằm nghe gió đìu hiu và tiếng sóng vỗ xa, tôi bỗng nhớ lại những ngày vui của chúng mình ở Sài Gòn.

Ôi! Những ngày vui ấy qua mau quá. Qua mau như khói thuốc. Qua mau như nắng quái chiều hôm. Qua mau như tuổi trẻ chúng mình. Và tất cả chỉ còn là kỷ niệm sẽ làm ta đau khổ. Nước mắt sẽ tuôn chảy và tuổi trẻ gục mặt buồn…..”


Tự dưng nhớ hình ảnh hồi nhỏ đi học, giờ ra chơi cùng đám bạn con nít thò tay qua hàng rào trường học để mua đồ ăn. Không biết mấy bà bán hàng rong trước cổng trường hồi ấy bây giờ ra sao rồi nhỉ? Tương giao ấy đẹp quá, giữa một bên là thiên thần và một bên là những kẻ vất vả mưu sinh nhưng được gần gũi thiên thần. Giống như Heidegger nói rằng mỗi người chúng ta sinh ra trên mặt đất này chính là bị xô đẩy vào một nơi mà nơi đó vừa là cố hương vừa là chốn đọa đày. Mỗi chúng ta đều có một phiên bản thiên thần ở bên trong, ngày xưa nó hiện rõ bên ngoài, làm sao mà càng lớn lên chúng ta đã làm gì cho cái phần ấy chìm sâu, chìm sâu.....


Huy! có vẻ như hồi chiều này mình đã nghe ra hơi thở của một con bướm nhỏ vừa đập cánh bay qua một đại dương. Giờ đây nó đã khép lại đôi cánh mỏng trên đồng cỏ mênh mông kia, nơi có những bông cỏ mảnh khảnh khẽ đung đưa theo làn gió, vô tư tắm mình trong thiên nhiên đơn sơ và vĩnh hằng.


Có thể làm một con người đứng trên mặt đất vào lúc này, điều đó đã trở nên thật lạ thường và thiêng liêng. Xin tạ ơn đến tất cả, nhất là những ai đã từng ít nhiều, vô tình hay hữu tình, làm rung lên trong tôi 1 cung bậc tâm tư bất kỳ nào đó. Có người ở gần, có người ở xa; có người còn trẻ, có người còn đây, có người đã xa..... tẩt cả giống như là .... cùng tôi nơi đây đang nhìn vào nhau, xin cúi mình tạ lễ trong vô vàn sung sướng.


Ngay cả cái giả của giả nó cũng giả. Việc nhận ra cái lõi giả tạo của sự thật làm cho thật thành giả, nhưng không làm cho giả thành thật. Khi đó giá trị của giả và thật là như nhau, nhưng giả là giả, thật là thật. Giả như khi bạn chơi trong 1 ván cờ, trong đó có đủ: thành-bại, được-mất, hơn-kém, có ba quân tướng sĩ, mỹ nhân và những trận chiến.... nhưng bạn có quyền xem đó chỉ là 1 ván cờ mua vui trong những canh giờ. Giữa hai thái cực đó, bạn đang ở đâu trong khi tiệm tiến về phía cao đỉnh của ánh sáng và bóng tối. Ván cờ đã kết thúc, chỉ còn đó những quân cờ vô tri, chỉ người đã kinh qua 1 ván cờ mới hiểu rõ sự sinh động lẫn vô nghĩa của nó. Đó là một câu chuyện cổ được kể đi kể lại hằng đêm.

Xin gửi lại thuở trăm năm buồn tủi
Về trở lại cho hóa thạch thời gian. Uyển Lan.
 

Đâu ai đi khỏi chiếc bóng của chính mình. Ngôn ngữ, trong khi diễn bày một thực tại, tự nó đang tạo ra một thực tại đồng thời. Con dê trên đồng cỏ trong khi đang đuổi theo một ảo ảnh của thực tại để tìm kiếm một thực tại có thực thì cái mà nó có được là gì ? Cả hai: thực và phi thực, ảo ảnh và vĩnh cửu. Như vậy, tự nó đã có cái nó muốn: là tổng hòa của các cực đối lập, cái vượt lên trên. Giải trừ xung đột. Nhưng chỉ khi nào nó tự mình trực nhận trở lại vị trí của nó để đặt dấu chấm hết cho tất cả mọi cuộc rượt đuổi. Nếu không tự mình bước tới bờ hương chín, thì cõi mật không tụ về trong trái (M.H). Như vậy, ẩn ngữ luôn luôn tồn tại ngay trên ngôn ngữ của mình mà tôi buộc phải thừa nhận đó phải là sự sụp đổ của chính mình trong thể tánh. Ngôn ngữ, con người và thực tại là gì đó thật kỳ diệu như lời của Garbriel Garcia Marquez, chủ soái của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo: Con người! Kỳ diệu thay, nó có một thứ tiếng nói không thể dập tắt.

....buổi sáng bước ra con đường nhỏ thấy những cái cột đèn đứng cách đều nhau như một hàng lính canh dần hiện ra sau lớp sương mù buổi sớm. Ánh sáng dần chiếm lĩnh và ban bố sự sống khắp nơi, quyền lực mặt trời. Bóng tối lùi xa trong sự trình hiện của ánh sáng, ánh sáng đó vốn dĩ từ trong bóng tối đi ra; Sáng_Tối : chẳng phải là cùng nhau, chẳng phải là khác nhau, cái đó nằm ở sự chế định ban đầu như những tiên đề sơ khởi. Sự trình hiện bên ngoài là do ở bên trong, Sáng ở bên ngoài do bởi đã sáng ở bên trong. Sáng ở bên trong do bởi đã sáng ở chỗ không bên trong không bên ngoài. Cần phải vay mượn những lời như thế để có thể cùng nhau trong một cuộc rong chơi chỉ có thể diễn ra trong một lần nào đó. Giả sử trong lần đó ta nói về sự thật, thì có hai sự được nói ra cho thật: Sự thât tự nó và cảm xúc về sự thật. Sự thật tự nó thì không thể nói rồi, vì không thể nói mà cũng là chẳng có gì để nói. Từ chỗ đó, ta chỉ còn lại một: Cảm xúc về sự thật. Tức là những gì ta suy nghĩ và hành động dựa trên những dữ liệu mà ta xác định là "thật" thì cái "thật" đó đã được nhận thức "cấu trúc lại" sao cho chủ thể có một cảm giác rằng nó thật. Cho nên chủ thể khi đó chỉ là kẻ đang quờ quạng trong bóng tối trong khi nói về ánh sáng. Kẻ sống trong ánh sáng thật sự không có khái niệm về ánh sáng mà chỉ có ánh sáng, mà ánh sáng khi đó đã không còn là đối tượng trước chủ thể. Ánh sáng khi đứng trong vai trò đối tượng nhận thức của chủ thể, lập tức ánh sáng đó trở lại là khái niệm ánh sáng. Đó là vô thường, sự thay đổi trong vị trí dẫn đến thay đổi trong bản chất. Thay đổi một tâm thế trước đời sống thôi đã đủ cho đời sống phải thay đổi rồi. Nếu ta không thay đổi gì cả trước đời sống thì đời sống vẫn cứ thay đổi. Nhưng hai thế đứng khác nhau trước đời sống.


....và đại ngàn biết người xưa đúng hẹn
thả cánh chim chiều về mộ đứng kêu.
 
Nếu một mai nắng có phai tàn trên tóc rối.
Xin gọi tên người về giữa quá khứ lãng quên. Uyển Lan.
 
ta về đứng giữa cuộc trăm năm buồn tủi
nghe thời gian im giấc ngủ mơ hồ. UL.
 

Huy! trong thành phố này, những buổi chiều mình có thấy những con chim đứng cô đơn trên những cành cây trụi lá đang nhìn vào những khung cửa sổ đóng kín của những căn nhà luôn luôn đóng kín. Những chiều như vậy mình cảm thấy có thể giơ tay ra hứng lấy một cái gì đó trống rỗng và mơ hồ như những ngôi sao trời rơi xuống lòng giếng những đêm trăng sáng ở một nơi hoang vu không dấu chân người nào đó mà mình cứ luôn loáng thoáng thấy đâu đó như chân dung siêu thực của nỗi buồn về những giấc mơ thời tuổi trẻ của chúng ta. Bây giờ trời trở cuối mùa thu, chúng ta đã đi qua bao nhiêu mùa thu như vậy trong cuộc đời của chúng mình rồi, hả Huy? ......rồi thì Huy sẽ không trả lời mình đâu, mình biết. Huy sẽ im lặng, im lặng như cuộc đi của thời gian qua tuổi trẻ chúng ta, sau đó thì Huy sẽ cười một nụ cười nhẹ như tơ rồi giương đôi mắt nhìn ra ngoài xa xăm. Chỗ xa đó chỉ có thi ca may ra có thể qua sự hòa điệu tương đồng ngõ hầu cũng nhau vươn tới một vùng trời khả dĩ mà đôi mắt ấy đang hướng tới:


buổi hoang vu ta về dẫm trên vùng kỷ niệm
nghe thu muộn nhuốm buồn lên vách đá
chiều phủ màu nhung lên đôi mắt người lữ thứ
sao ai còn thơ thẫn đợi chờ ai? Uyển Lan.
 

Huy! có người đã nói rất âm thầm và chân tình với mình về một quan điểm, một thái độ đối với mọi thứ đang diễn ra hàng ngày. Rằng: "để đạt được những gì ngươi muốn, ngươi phải dám từ bỏ chính cái muốn đó. Như vậy, chính trong vị thế đó ngươi mới có thể nhận ra sự phi nghĩa lý ban đầu của ngươi trong sự tham cầu, ước muốn đó và đặc tính kỳ diệu của cái cuộc sống vô nghĩa lý mà ngươi đang dự phần trong đó. Huyền chi hựu huyền. Đó là nếp gấp trong tư duy về hiện thực vô thượng của tồn tại. Trong dòng chảy đó, chẳng có gì đáng để phải cầu xin, mong muốn hay tranh đoạt, giành giật gì cả, vì ngươi đang vốn có mọi thứ hết rồi, chỉ vì ngươi không đủ trong sáng để dám nhận diện lại chính gương mặt đang hiện hữu của chính ngươi mà thôi. Nhiều người sẽ cho rằng điều này là không ổn, là bất khả, là điên.... nhưng nếu ngươi dám đi theo ta thì ngươi sẽ tự mình chứng kiến thế nào là sự kỳ diệu và lộng lẫy của thế giới. Tự trong sâu thẳm đơn độc thật sự, tịch lặng thật sự, ai cũng hiểu rõ điều này, chính vì thế mà "họ" không thể thấy ra cái mà họ đang thấy. Những huyền thoại nhân loại xưa nay, nhất là huyền thoại đông phương điển hình như Sakya, Nagarjuna, Osho, Tăng Triệu.... chẳng phải đã luôn luôn nhắc đi nhắc lại nếp suy tư này đó sao?.......

.... nghịch lý sau cùng là chính những gì Huy được nghe cũng chỉ là trò đùa lý thuyết mà thôi, vấn đề của Huy là Huy sẽ là lý thuyết gia hay nhà cải cách hay chẳng là gì cả.... đó là điều trọng yếu vô nghĩa của chúng ta.


....mỗi ngày chúng ta đứng bên nhau không quen nhau thân mật ngó lên mái tóc rối nền trời khuya, thành phố đau từ những cột đèn. Tôi tìm một chỗ ngồi trên ô tô buýt như tìm tự do của đời tôi.....rồi tự do ngồi khó

 
Lũ chúng ta ngủ trên giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái lều tranh rũ bóng xuống tâm hồn. (Chế Lan Viên)


Huy ơi! Sau này, dù mình có đi đến đâu chăng nữa, đến bao xa chăng nữa, nơi sơn cùng thủy tận nào đó thì mình….. mình cũng chưa thể nào dừng bước trong cuộc lữ hành miên viễn này của đất trời đâu. Ngày lại ngày, mùa lại mùa cứ tiếp nối, có dừng lại bao giờ đâu trong một khoảnh khắc nào, và trời…. trời có làm gì đâu, sao bốn mùa vẫn đều đặn luân phiên. Gió thu đêm nay đang thổi buồn ngoài khung cửa, màn đêm tịch mịch não nùng, Huy hãy nói với bầy ngựa hoang đêm nay thôi hãy dừng bước. Chớ có cứ duỗi bước miên man vô định một cách lạc loài, vong thân như thế, bởi sau cùng rồi thì cả ta và ngươi cũng đều là những kẻ bại trận trong tất cả mọi cuộc chinh phục, tương tranh lớn nhỏ trong suốt cuộc lữ hành kia mà chúng ta đã hăm hở tự mình lao vào hoặc bị xô đẩy vào. Cho đến khi chúng ta hiểu ra trọn vẹn điều đó thì cũng là lúc chúng ta phải chăng là đã đặt chân đến chỗ tận cùng rồi. Chỗ tận cùng đó có thể là sự chấm dứt của dòng máu chạy qua tim mà cũng có thể và hoặc là bước khởi đầu mà từ đó chúng ta đi vào trong vĩnh hằng của hiện hữu, vĩnh viễn đặt dấu chấm hết cho tất cả mọi cuộc chinh phục, tương tranh.


Huy biết không! đêm nay ở nơi xa xôi này, khi vén rèm nhìn ra ngoài mình thấy những cột đèn đường đứng trơ trọi hắt xuống mặt đường thứ ánh sáng vàng nhạt yếu ớt tự dưng mình thấy tâm thế mình đang trở về với một vùng trời vô hình vô định dường như được tạo nên bởi một tiếng gọi vô thanh mơ hồ thật xa xôi, thật mơ hồ sương khói nhưng lại rất trung thực, mình đang cảm nhận rất rõ mà Huy! Và trong đó mình nhắm mắt lại để nghe và thấy rõ hơn tiếng guốc của cô giáo gõ xuống hành lang lớp học hồi nhỏ, tiếng cười nói của những bạn bè học trò mà mình không còn nhớ mặt và đã quên tên tuổi gần hết, không biết giờ họ đang ở đâu, đang làm gì. Những gì không thực nhất lại có thể trở nên thực đến như thế này ư? Con người và đời sống của nó thật kỳ lạ, thật khôn lường Huy ơi! biết nói thế nào cho Huy hiểu những gì mình đang thấy trong lãng đãng sương khói về cuộc tồn tại mình nơi đây, ngôn ngữ là để trình hiện hay ngôn ngữ là để che dấu, hay ngôn ngữ là một hình thái tồn tại khác nữa vừa bước ra ngay bởi sự nỗ lực trình hiện của nó về đối tượng. Thi ca sẽ trả lời cho điều đó:

tiếng ve nào rụng vỡ chiều ly biệt
nào đã gọi hè đêm thổn thức
mà gọi chiều bên bến nhớ mang mang
kìa quê hương trên dấu tích lạc loài
ngân làm chi mấy cung trầm nhỏ lệ
chiều đã ướt từ bây bấy thuở. Uyển Lan.
Sáu mươi năm ai làm cát bụi
Giữa trùng khơi nghe nhịp vỗ thời gian. Uyển Lan.
 
Một sớm kia bước ra
Lắng nghe nụ hoa trắng
Từ đó ta nhớ ra
Một dòng trôi lững lờ. U Lan.

Con chim dại lạc miền hoang lương (*)

Truyện ngắn “Khi chiều tới gió reo trên lá rừng phong” của Phạm Công Thiện viết ở Los Angeles tháng 9/1985 đã cắt ngang cuốn tiểu thuyết_hồi ký “Hội hè miên man” của Hemingway ở ngay chương đầu tiên “Một quán rất được trên quảng trường St. Michel”. Giao điểm đó như thế này:

Người lữ khách lỡ đường

Quán rượu không người trong thành phố, cái thành phố im lặng đìu hiu chỉ có tiếng mưa gió và những căn nhà đóng cửa.

Thiếu nữ ngồi một mình trong quán rượu
Buổi chiều thu tàn với mưa gió lạnh lẽo thổi bên ngoài

Tương tranh nhẹ giữa câu chuyện trong đầu và khung cảnh bên ngoài

Người lữ khách ngồi ở cuối quán rượu, nơi góc phòng với chai rượu (Whiskey, rum St. James), lấy bút ra và viết lên giấy trắng những dòng chữ miên man. Câu chữ tuôn ra trên trang giấy, đôi khi câu chuyện trong đầu ông chạy quá nhanh và người lữ khách chật vật chạy đuổi theo cố bắt chúng lại, cố định chúng lại trên trang giấy. Thỉnh thoảng ông dừng lại, ngẩng đầu lên nhìn thiếu nữ; thiếu nữ khẽ đưa mái tóc sang bên, đôi khi nàng khẽ ho vài tiếng, tiếng ho trong trẻo; rồi nàng lại cúi xuống đọc sách, bên ngoài ngọn gió cuối thu vẫn thổi mạnh như đong cho đầy thêm nỗi buồn và lạnh giá, phủ âm u và ướt át khắp nơi trong thành phố. Người lữ khách nhìn xuống trang giấy, tiếp tục viết và rồi ông thấy cô gái hiện ra trên trang giấy với mái tóc; ông không nhớ mình đã mời nàng vào câu chuyện từ lúc nào hay là nàng đã chủ động bước vào câu chuyện của ông, tự nhiên như khi ngẩng đầu lên hất mái tóc ra sau, như cúi đầu lên trang sách, thi thoảng lơ đãng nhìn ra khung cửa nghe gió lạnh thổi rít bên ngoài.

Và cái quan trọng nhất: tư thế của người viết đối với sứ mệnh văn chương và cũng là người lữ khách trước cuộc đời mưa gió, những tương tranh không thể không có như gia vị của một bữa tiệc. Khi ngồi trước trang giấy cũng chính là ngồi đối diện với cuộc đời, với chính mình và thực hiện cuộc lên đường tìm kiếm tự do và hạnh phúc hay là cuộc chiến vô hình với bóng tối của ý thức qua ngòi bút; cuộc tầm cầu, trưởng dưỡng ý thức hệ, những khám phá về ngã_nhân, sự sống và cái chết, sự nô lệ của con người, sự gục ngã, thất bại của tha nhân trước chân lý.

Trong “hội hè miên man” (A moveable feast) Hemingway đã nói là điều cần thiết nhất của ông khi viết là phải viết cho ra sự thật bởi dẫu sao thì chúng ta vẫn luôn bị ngăn cách với sự thật của mình. Cả Hemingway và Phạm Công Thiện đã tạo ra những bữa tiệc văn chương, chữ nghĩa bằng dấu ấn riêng biệt của mình và thu hút người đọc nhiều thế hệ cho đến tận sau khi họ đã qua đời. Hemingway tìm cầu sự thật, còn Phạm Công Thiện vứt bỏ mọi giá trị ngay từ đầu theo phong cách đập phá thiên bẩm của mình. Tư thế cầm bút của Phạm Công Thiện là hủy phá mọi rào cản trên đường đi của ngôn ngữ, của tư tưởng để truy nguyên thể tánh, để sống trần trụi với nỗi khát vọng tự do của một con người nhận ra sự nô lệ ý thức của mình trước văn hóa-văn minh nhân loại. Nhận ra sự nô lệ đó chính là nhìn thấy sự thật. Nhìn thấy sự thật, con người kẻ sĩ lập tức nổi giận vì thấy mình bị tước đoạt cái quyền sống thiêng liêng; lập tức rút kiếm ra bước vào trận chiến quét sạch bóng tối của ý thức dưới danh nghĩa văn hóa, truyền thống, phong tục, quy chuẩn đạo đức,…:

“dừng chén, ném đũa, nuốt không trôi
Rút kiếm, nhìn quanh lòng mênh mang
Muốn vượt hoàng hà, sông băng đóng……”

Đó chính là Lý Bạch với bầu rượu và thanh gươm trên tay. Lưỡi gươm sắc xoay tít trong tay nhưng tuyệt nhiên không nhắm vào bất cứ ai, bất cứ người nào mà cuộc vung gươm của con người kẻ sĩ chỉ chặt chém vào hư không trong nỗ lực phá vòng vây kiên cố của thành kiến nội tại bên trong, chặt đứt thói quen làm nô lệ của ý thức, lên đường đến với tự do. Đó cũng chính là cuộc chiến của Nietzsche trong “Buổi hoàng hôn của những thần tượng” với vũ khí là cái búa, là lưỡi tầm sét đập đổ những thành trì của sự dối trá, phỉnh gạt trong ý thức của con người, xô ngã “ tất cả những chân lý cắm rễ sâu xa nhất trong lòng đời và dám đốn ngã những thần tượng được tôn kính của truyền thống, và thừa can đảm để gây nên những âm thanh trống rỗng của buổi chiều tà”. Nietzsche nói “Hoặc chúng ta phá hủy sự sùng bái của chúng ta hoặc chúng ta phá hủy chính chúng ta”.

Còn tác phẩm của Phạm Công Thiện là tiếng sấm rền, là tiếng thét của con người tuổi trẻ trước thời cuộc mà sức sống bị bóp nghẹt vì những làn đạn cày xéo thê thảm trên quê hương. Không còn lý tưởng, thân phận con người bị quăng ném ra giữa đêm đen của con đường mất lối, con người không biết mình sống vì cái gì, mình phải đi đâu, làm gì và dưới chân mình là nguyên một vũng lầy. Lúc ấy người ta đọc Phạm Công Thiện, vồ chụp lấy những tác phẩm của ông vì nhận ra đó chính là tiếng kêu la, gào thét bị dồn nén bên trong của chính mình. Cơn cuồng nộ, bí lối bên trong được phóng thích qua tiếng gào thét đó. Với tác phẩm “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học”, An Tiêm xuất bản năm 1965 (Phạm Công Thiện khởi sự viết tác phẩm này năm 1959, lúc 18 tuổi ), Phạm Công Thiện đã làm chấn động toàn bộ con người tuổi trẻ miền Nam, mở đầu cho một thời đại của những tiếng gào thét và những cơn địa chấn liên miên trong tâm thức con người tuổi trẻ Việt Nam:

_ Trời tháng Tư (An Tiêm, 1966)

_ Im lặng hố thẳm (An Tiêm, 1967 và 1969; Phạm Hoàng, 1969)

_ Hố thẳm của tư tưởng (An Tiêm, 1967)

_ Mặt trời không bao giờ có thực (An Tiêm, 1967)

_ Chỉ còn tiếng thơ trên mặt đất — Trở về Rainer Maria Rilke (1969)

_ Henry Miller (Phạm Hoàng, 1969)

_ Ý thức bùng vỡ (Đồng Nai, 1970)

_ Bay đi những cơn mưa phùn (Phạm Hoàng, 1970)…….

Đó là thời mà…. nói như họa sỹ Trịnh Cung, bạn của Trịnh Công Sơn, đã nói khi hay tin Phạm Công Thiện mất “…. như thời tôi và Thiện gặp nhau ở Sài Gòn những năm 60-70. Đó là những năm đẹp nhất đã sinh ra những kẻ bất thường, những kẻ độc đáo duy nhất trong nền văn nghệ Sài Gòn, không có trước và sau: Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn. Thời làm ra tiếng thét của Thiện khi mặt trời đỏ đổ máu xuống Sài Gòn: “Máu, máu, kìa!”, Thiện vừa gào vừa chỉ tay về phía mặt trời đỏ khi hai đứa tôi đang thả bộ trên đường Tự Do. Tôi nghĩ thầm, chắc Thiện nhớ đến hình ảnh hoàng hôn đẫm máu (bloody twilight) trong “Dry September” của William Faulkner”.

Điều lớn lao nhất mà Phạm Công Thiện đã làm được ở vị trí của mình là đưa người đọc tiếp cận những tinh hoa và cao đỉnh tư tưởng nhân loại trong thời của mình. Sau đó thực hiện một cuộc đảo chính ý thức hệ, phủ nhận tất cả mọi giá trị, đạp đổ và rũ bỏ toàn bộ triết thuyết đông tây kim cổ như những thứ đeo bám nặng nề, đứng thẳng lưng và một mình đơn độc bước tới đối diện cuộc đời với tư thế của một kẻ tự do, một kẻ kiên quyết rũ bỏ, một kẻ triệt để lãng quên. Bởi lẽ tất cả mọi triết thuyết đều cằn cỗi trước đời sống, mọi tiếng nói đều vô nghĩa và rơi rụng trước niềm im lặng. Mọi thần thánh đều có ngày tàn của mình, mọi thành trì đều có ngày sụp đổ; phủ nhận là bước đi phải có của trật tự phát triển. Sứ mệnh thiêng liêng của con người là kiến tạo nên chính mình để thoát khỏi kiếp sống lê lết trên mặt đất hoang vu của một sinh linh nhỏ bé bởi ngộ nhận về cái tôi và tha nhân, sự tôn thờ những giá trị bên ngoài, là sự bám rễ sâu của thành kiến, của bóng tối ý thức đè nặng lên sinh mạng thiêng liêng của con người. Phạm Công Thiện là than đỏ trong lò. Tuổi trẻ đọc Phạm Công Thiện mà không cảm thấy sức nóng tỏa ra trên những trang viết, không cảm nhận một luồng sinh khí nhoi nhoi trong huyết quản thôi thúc một cuộc lên đường thì có 2 trường hợp. Một, tuổi trẻ đó đã chết. Hai, tuổi trẻ đó tự nội tại đã phủ nhận Phạm Công Thiện và phủ nhận luôn chính mình vì không có gì để công nhận. Không có ngã và không có nhân. Thế giới chỉ là một dòng chảy liên tục, diễn tiến không ngừng nghỉ ngay trong từng khoảnh khắc, không có gì tựu thành, nói cách khác: ngay khi tựu thành đã lập tức tan rã. Và vì vậy thế giới không thể nắm bắt, và bởi nhận thức chỉ là sự tái cấu trúc hóa thế giới qua tấm màn tuệ ngã. Và ngay tại đây Phạm Công Thiện đã thất bại, sự thất bại tiếp sau sự thất bại của tất cả ý thức hệ và tất cả đạo lý; sự thất bại của Heidegger, sự thất bại của Hegel, sự thất bại của Scopenhauer, sự thất bại của Husserl, sự thất bại của Cơ cấu luận, sự thất bại của Xã hội học, sự thất bại của Sartre,…. mà Phạm Công Thiện liệt kê thành tựa của 9 chương sách trong “Ý thức bùng vỡ”. Sau cơn đập phá tất cả mọi thành trì ý thức hệ của tất cả mọi triết thuyết, tư tưởng đông tây kim cổ… Phạm Công Thiện không biết phải kiến tạo cái gì, không vẽ nổi một con đường để cho ý thức mình thoát khỏi “sự mất lối”, không có một quê hương để trở về và con chim kia vẫn sẽ phải bay mãi trong miền hoang lương.

10/2017_ Uyển Lan.

(*) Thơ Phạm Công Thiện.

No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...