….hồi đầu thế kỷ nào ấy trong thời kỳ gió bụi, trần
gian khô hạn và đã có rất nhiều sỏi đá trong trong thức ăn của con
người; ở chốn đông người đã từng nghe có người hát như thế này:
trời đất mang mang ai người tri kỷ
lại đây cùng ta cạn một hồ trường
hồ trường hề! hồ trường!
ta biết rót về đâu?
rót về phương Đông
biển Đông nổi sóng sinh cuồng loạn
rót về phương Bắc
ngọn Bắc phong cát chạy đá giăng
rót về phương Nam
trời Nam mờ mịt
hát xong lệ tuôn như mưa, trần gian hết khô hạn, khách
nghe lòng bồi hồi nuối tiếc, Im lặng dài qua thế kỷ phong ba, thời
gian tan chảy trong nghìn trùng, rêu phong cuộc đời.
……lũ trẻ ngày xưa nay chẳng còn nô đùa trên sóng, chẳng
còn ai trở về nhìn con sóng bạc đầu năm cũ, như bầy chim bỏ xứ. Năm
tháng đó đã làm thay đổi mọi thứ trên dòng trôi của nó, hẳn vậy
rồi. Nhưng chẳng phải như vậy, sự thật chẳng phải là như vậy! Nhưng
ai sẽ là người có thẩm quyền về sự thật trong mắt ai? Những gì
được trình hiện trong ngôn ngữ cần phải được xem xét trong cách thế
của một dòng chảy đang đồng điệu cùng đời sống đang dung chứa nó.
Mọi thứ đều đang vận động, mọi thứ đều đang trôi chảy, và vì vậy
mà mọi thứ đều đang thay đổi. Chính điều đó là không bao giờ thay
đổi. Cho nên mọi thứ dù luôn luôn thay đổi cũng là thay đổi trong một
trật tự định đoạt cho bản chất thay đổi của nó, và trật tự đó lại
là một trật tự bất định.
…..cha trao cho con ngọn đèn dầu, con cầm lấy như cầm
ngọn đuốc…. và này con hãy bước đi! Ngọn đèn soi sáng đời con cũng
chính là ngọn đèn đã soi sáng đời cha. Nhưng cái mà con sẽ nhìn
thấy chẳng phải thứ mà cha đã nhìn thấy. Màu nắng chiếu trên thành
Ca Tỳ La Vệ cũng là màu nắng chiếu trong mắt con. Nhưng con sẽ chẳng
thể nào hiểu được màu nắng trên thành Ca Tỳ La Vệ.
.....đã bao lần thanh kiếm sắc ngời lên
ánh thép, toan một lần định đoạt để đưa vào định mệnh những khốc
liệt điêu tàn, song ngập ngừng...cắt, khứa, chặt, chém giữa muôn
trùng thế giới vây kín xung quanh những nỗi buồn, tôi và anh trên
những điệp khúc úa màu của giai điệu thời gian đã gặp nhau nơi những
ngã rẽ khôn cùng trầm lắng của cung đàn lạc nhịp không thể cứu vãn
nổi. Và vì vậy không thể nào can đảm đứng lại chờ đợi sự hồi đáo
của những tiếng vọng phía bên kia bến bờ quá khứ, quê hương của điệu
dân ca, chúng ta buộc lòng phải ra đi. Ra đi ngay trên từng bước chân đi
để vừa làm mới cho chính mình vừa trả lời cho chính mình who we really
are?
"Huy!
Suốt đời tôi chắc chắn không bao giờ tôi quên được đôi mắt ướt
lệ của một nàng ca sỹ mà chúng mình đã nhìn thấy vào một đêm mưa tầm tã trong
một phòng trà mờ tối ở Sài Gòn.
Hình ảnh đau buồn lặng lẽ ấy đã ám ảnh tôi suốt những đêm dài âm
u ở vùng biển xanh.
Tôi vẫn không quên được một tối cùng ngồi với Huy nơi một quán
rượu bên bờ sông Sài Gòn. Đêm ấy, trời làm mưa, trời làm gió…. Mưa phủ kín hết
những chiếc tàu. Mưa phủ kín hết những hoài vọng triền miên của tuổi trẻ. Tôi
nhìn những chiếc lá ướt mưa, tôi nhìn lên đôi mắt của Huy và tôi thấy đôi mắt
đó thật xa xăm, thật u buồn… Trong đêm tối, tôi chợt nghe rõ âm vang đâu đó,
giọng hát ru khuya của những nàng ca sỹ yếu gầy. Rồi tôi thấy những con đường
Sài Gòn phủ đầy lá vàng. Rồi tôi thấy tuổi trẻ chạy trốn, và những con sông
chảy âm thầm về biển…
Tôi đã từ bỏ sông Sài Gòn để trở về biển, tôi về đây, sống biệt
lập trên một đồi cao. Những đêm khuya nằm nghe gió đìu hiu và tiếng sóng vỗ xa,
tôi bỗng nhớ lại những ngày vui của chúng mình ở Sài Gòn.
Ôi! Những ngày vui ấy qua mau quá. Qua mau như khói thuốc. Qua
mau như nắng quái chiều hôm. Qua mau như tuổi trẻ chúng mình. Và tất cả chỉ còn
là kỷ niệm sẽ làm ta đau khổ. Nước mắt sẽ tuôn chảy và tuổi trẻ gục mặt
buồn…..”
Tự dưng nhớ hình ảnh hồi nhỏ đi học,
giờ ra chơi cùng đám bạn con nít thò tay qua hàng rào trường học để
mua đồ ăn. Không biết mấy bà bán hàng rong trước cổng trường hồi ấy
bây giờ ra sao rồi nhỉ? Tương giao ấy đẹp quá, giữa một bên là thiên
thần và một bên là những kẻ vất vả mưu sinh nhưng được gần gũi thiên
thần. Giống như Heidegger nói rằng mỗi người chúng ta sinh ra trên mặt
đất này chính là bị xô đẩy vào một nơi mà nơi đó vừa là cố hương
vừa là chốn đọa đày. Mỗi chúng ta đều có một phiên bản thiên thần
ở bên trong, ngày xưa nó hiện rõ bên ngoài, làm sao mà càng lớn lên
chúng ta đã làm gì cho cái phần ấy chìm sâu, chìm sâu.....
Huy! có vẻ như hồi chiều này mình đã
nghe ra hơi thở của một con bướm nhỏ vừa đập cánh bay qua một đại
dương. Giờ đây nó đã khép lại đôi cánh mỏng trên đồng cỏ mênh mông
kia, nơi có những bông cỏ mảnh khảnh khẽ đung đưa theo làn gió, vô tư
tắm mình trong thiên nhiên đơn sơ và vĩnh hằng.
Có thể làm một con người đứng trên mặt đất vào
lúc này, điều đó đã trở nên thật lạ thường và thiêng liêng. Xin tạ ơn đến tất cả,
nhất là những ai đã từng ít nhiều, vô tình hay hữu tình, làm rung lên trong tôi
1 cung bậc tâm tư bất kỳ nào đó. Có người ở gần, có người ở xa; có người còn trẻ,
có người còn đây, có người đã xa..... tẩt cả giống như là .... cùng tôi nơi đây
đang nhìn vào nhau, xin cúi mình tạ lễ trong vô vàn sung sướng.
Ngay cả cái giả của giả nó cũng giả. Việc nhận ra cái lõi giả tạo của sự thật làm cho thật thành giả, nhưng không làm cho giả thành thật. Khi đó giá trị của giả và thật là như nhau, nhưng giả là giả, thật là thật. Giả như khi bạn chơi trong 1 ván cờ, trong đó có đủ: thành-bại, được-mất, hơn-kém, có ba quân tướng sĩ, mỹ nhân và những trận chiến.... nhưng bạn có quyền xem đó chỉ là 1 ván cờ mua vui trong những canh giờ. Giữa hai thái cực đó, bạn đang ở đâu trong khi tiệm tiến về phía cao đỉnh của ánh sáng và bóng tối. Ván cờ đã kết thúc, chỉ còn đó những quân cờ vô tri, chỉ người đã kinh qua 1 ván cờ mới hiểu rõ sự sinh động lẫn vô nghĩa của nó. Đó là một câu chuyện cổ được kể đi kể lại hằng đêm.
Về trở lại cho hóa thạch thời gian. Uyển Lan.
Đâu ai đi khỏi chiếc
bóng của chính mình. Ngôn ngữ, trong khi diễn bày một thực tại, tự
nó đang tạo ra một thực tại đồng thời. Con dê trên đồng cỏ trong khi
đang đuổi theo một ảo ảnh của thực tại để tìm kiếm một thực tại
có thực thì cái mà nó có được là gì ? Cả hai: thực và phi thực,
ảo ảnh và vĩnh cửu. Như vậy, tự nó đã có cái nó muốn: là tổng
hòa của các cực đối lập, cái vượt lên trên. Giải trừ xung đột. Nhưng
chỉ khi nào nó tự mình trực nhận trở lại vị trí của nó để đặt
dấu chấm hết cho tất cả mọi cuộc rượt đuổi. Nếu không tự mình bước
tới bờ hương chín, thì cõi mật không tụ về trong trái (M.H). Như vậy,
ẩn ngữ luôn luôn tồn tại ngay trên ngôn ngữ của mình mà tôi buộc phải
thừa nhận đó phải là sự sụp đổ của chính mình trong thể tánh. Ngôn
ngữ, con người và thực tại là gì đó thật kỳ diệu như lời của
Garbriel Garcia Marquez, chủ soái của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo:
Con người! Kỳ diệu thay, nó có một thứ tiếng nói không thể dập tắt.
....buổi sáng bước ra con đường nhỏ thấy
những cái cột đèn đứng cách đều nhau như một hàng lính canh dần
hiện ra sau lớp sương mù buổi sớm. Ánh sáng dần chiếm lĩnh và ban
bố sự sống khắp nơi, quyền lực mặt trời. Bóng tối lùi xa trong sự
trình hiện của ánh sáng, ánh sáng đó vốn dĩ từ trong bóng tối đi
ra; Sáng_Tối : chẳng phải là cùng nhau, chẳng phải là khác nhau, cái
đó nằm ở sự chế định ban đầu như những tiên đề sơ khởi. Sự trình
hiện bên ngoài là do ở bên trong, Sáng ở bên ngoài do bởi đã sáng ở
bên trong. Sáng ở bên trong do bởi đã sáng ở chỗ không bên trong không
bên ngoài. Cần phải vay mượn những lời như thế để có thể cùng nhau
trong một cuộc rong chơi chỉ có thể diễn ra trong một lần nào đó. Giả
sử trong lần đó ta nói về sự thật, thì có hai sự được nói ra cho
thật: Sự thât tự nó và cảm xúc về sự thật. Sự thật tự nó thì
không thể nói rồi, vì không thể nói mà cũng là chẳng có gì để
nói. Từ chỗ đó, ta chỉ còn lại một: Cảm xúc về sự thật. Tức là
những gì ta suy nghĩ và hành động dựa trên những dữ liệu mà ta xác
định là "thật" thì cái "thật" đó đã được nhận
thức "cấu trúc lại" sao cho chủ thể có một cảm giác rằng
nó thật. Cho nên chủ thể khi đó chỉ là kẻ đang quờ quạng trong bóng
tối trong khi nói về ánh sáng. Kẻ sống trong ánh sáng thật sự không
có khái niệm về ánh sáng mà chỉ có ánh sáng, mà ánh sáng khi đó
đã không còn là đối tượng trước chủ thể. Ánh sáng khi đứng trong vai
trò đối tượng nhận thức của chủ thể, lập tức ánh sáng đó trở lại
là khái niệm ánh sáng. Đó là vô thường, sự thay đổi trong vị trí
dẫn đến thay đổi trong bản chất. Thay đổi một tâm thế trước đời sống
thôi đã đủ cho đời sống phải thay đổi rồi. Nếu ta không thay đổi gì
cả trước đời sống thì đời sống vẫn cứ thay đổi. Nhưng hai thế đứng
khác nhau trước đời sống.
....và đại ngàn biết người xưa đúng hẹn
thả cánh chim chiều về mộ đứng kêu.
Xin gọi tên người về giữa quá khứ lãng quên. Uyển Lan.
nghe thời gian im giấc ngủ mơ hồ. UL.
Huy! trong thành phố
này, những buổi chiều mình có thấy những con chim đứng cô đơn trên
những cành cây trụi lá đang nhìn vào những khung cửa sổ đóng kín
của những căn nhà luôn luôn đóng kín. Những chiều như vậy mình cảm
thấy có thể giơ tay ra hứng lấy một cái gì đó trống rỗng và mơ hồ
như những ngôi sao trời rơi xuống lòng giếng những đêm trăng sáng ở
một nơi hoang vu không dấu chân người nào đó mà mình cứ luôn loáng
thoáng thấy đâu đó như chân dung siêu thực của nỗi buồn về những giấc
mơ thời tuổi trẻ của chúng ta. Bây giờ trời trở cuối mùa thu, chúng
ta đã đi qua bao nhiêu mùa thu như vậy trong cuộc đời của chúng mình
rồi, hả Huy? ......rồi thì Huy sẽ không trả lời mình đâu, mình biết.
Huy sẽ im lặng, im lặng như cuộc đi của thời gian qua tuổi trẻ chúng
ta, sau đó thì Huy sẽ cười một nụ cười nhẹ như tơ rồi giương đôi mắt
nhìn ra ngoài xa xăm. Chỗ xa đó chỉ có thi ca may ra có thể qua sự hòa
điệu tương đồng ngõ hầu cũng nhau vươn tới một vùng trời khả dĩ mà
đôi mắt ấy đang hướng tới:
buổi hoang vu ta về dẫm trên vùng kỷ niệm
nghe thu muộn nhuốm buồn lên vách đá
chiều phủ màu nhung lên đôi mắt người lữ thứ
sao ai còn thơ thẫn đợi chờ ai? Uyển Lan.
Huy! có người đã nói rất âm thầm và chân tình với mình
về một quan điểm, một thái độ đối với mọi thứ đang diễn ra hàng
ngày. Rằng: "để đạt được những gì ngươi muốn, ngươi phải dám từ
bỏ chính cái muốn đó. Như vậy, chính trong vị thế đó ngươi mới có
thể nhận ra sự phi nghĩa lý ban đầu của ngươi trong sự tham cầu, ước
muốn đó và đặc tính kỳ diệu của cái cuộc sống vô nghĩa lý mà
ngươi đang dự phần trong đó. Huyền chi hựu huyền. Đó là nếp gấp trong
tư duy về hiện thực vô thượng của tồn tại. Trong dòng chảy đó, chẳng
có gì đáng để phải cầu xin, mong muốn hay tranh đoạt, giành giật gì
cả, vì ngươi đang vốn có mọi thứ hết rồi, chỉ vì ngươi không đủ
trong sáng để dám nhận diện lại chính gương mặt đang hiện hữu của
chính ngươi mà thôi. Nhiều người sẽ cho rằng điều này là không ổn,
là bất khả, là điên.... nhưng nếu ngươi dám đi theo ta thì ngươi sẽ tự
mình chứng kiến thế nào là sự kỳ diệu và lộng lẫy của thế giới.
Tự trong sâu thẳm đơn độc thật sự, tịch lặng thật sự, ai cũng hiểu
rõ điều này, chính vì thế mà "họ" không thể thấy ra cái
mà họ đang thấy. Những huyền thoại nhân loại xưa nay, nhất là huyền
thoại đông phương điển hình như Sakya, Nagarjuna, Osho, Tăng Triệu....
chẳng phải đã luôn luôn nhắc đi nhắc lại nếp suy tư này đó sao?.......
.... nghịch lý sau cùng là chính những gì Huy được nghe
cũng chỉ là trò đùa lý thuyết mà thôi, vấn đề của Huy là Huy sẽ
là lý thuyết gia hay nhà cải cách hay chẳng là gì cả.... đó là
điều trọng yếu vô nghĩa của chúng ta.
....mỗi ngày chúng ta đứng bên nhau không quen nhau thân mật ngó
lên mái tóc rối nền trời khuya, thành phố đau từ những cột đèn. Tôi tìm một chỗ
ngồi trên ô tô buýt như tìm tự do của đời tôi.....rồi tự do ngồi khó
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái lều tranh rũ bóng xuống tâm hồn. (Chế Lan Viên)
Huy ơi! Sau này, dù mình có đi đến đâu chăng nữa, đến bao xa
chăng nữa, nơi sơn cùng thủy tận nào đó thì mình….. mình cũng chưa thể nào
dừng bước trong cuộc lữ hành miên viễn này của đất trời đâu. Ngày lại ngày,
mùa lại mùa cứ tiếp nối, có dừng lại bao giờ đâu trong một khoảnh khắc nào, và
trời…. trời có làm gì đâu, sao bốn mùa vẫn đều đặn luân phiên. Gió thu đêm
nay đang thổi buồn ngoài khung cửa, màn đêm tịch mịch não nùng, Huy hãy nói với
bầy ngựa hoang đêm nay thôi hãy dừng bước. Chớ có cứ duỗi bước miên man vô định
một cách lạc loài, vong thân như thế, bởi sau cùng rồi thì cả ta và ngươi cũng
đều là những kẻ bại trận trong tất cả mọi cuộc chinh phục, tương tranh lớn nhỏ
trong suốt cuộc lữ hành kia mà chúng ta đã hăm hở tự mình lao vào hoặc bị xô
đẩy vào. Cho đến khi chúng ta hiểu ra trọn vẹn điều đó thì cũng là lúc chúng ta
phải chăng là đã đặt chân đến chỗ tận cùng rồi. Chỗ tận cùng đó có thể là sự
chấm dứt của dòng máu chạy qua tim mà cũng có thể và hoặc là bước khởi đầu mà
từ đó chúng ta đi vào trong vĩnh hằng của hiện hữu, vĩnh viễn đặt dấu chấm hết
cho tất cả mọi cuộc chinh phục, tương tranh.
Huy biết không! đêm nay ở nơi xa xôi này, khi vén rèm nhìn ra ngoài mình thấy những cột đèn đường đứng trơ trọi hắt xuống mặt đường thứ ánh sáng vàng nhạt yếu ớt tự dưng mình thấy tâm thế mình đang trở về với một vùng trời vô hình vô định dường như được tạo nên bởi một tiếng gọi vô thanh mơ hồ thật xa xôi, thật mơ hồ sương khói nhưng lại rất trung thực, mình đang cảm nhận rất rõ mà Huy! Và trong đó mình nhắm mắt lại để nghe và thấy rõ hơn tiếng guốc của cô giáo gõ xuống hành lang lớp học hồi nhỏ, tiếng cười nói của những bạn bè học trò mà mình không còn nhớ mặt và đã quên tên tuổi gần hết, không biết giờ họ đang ở đâu, đang làm gì. Những gì không thực nhất lại có thể trở nên thực đến như thế này ư? Con người và đời sống của nó thật kỳ lạ, thật khôn lường Huy ơi! biết nói thế nào cho Huy hiểu những gì mình đang thấy trong lãng đãng sương khói về cuộc tồn tại mình nơi đây, ngôn ngữ là để trình hiện hay ngôn ngữ là để che dấu, hay ngôn ngữ là một hình thái tồn tại khác nữa vừa bước ra ngay bởi sự nỗ lực trình hiện của nó về đối tượng. Thi ca sẽ trả lời cho điều đó:
nào đã gọi hè đêm thổn thức
mà gọi chiều bên bến nhớ mang mang
kìa quê hương trên dấu tích lạc loài
ngân làm chi mấy cung trầm nhỏ lệ
chiều đã ướt từ bây bấy thuở. Uyển Lan.
Giữa trùng khơi nghe nhịp vỗ thời gian. Uyển Lan.
Lắng nghe nụ hoa trắng
Từ đó ta nhớ ra
Một dòng trôi lững lờ. U Lan.
Con chim dại lạc miền hoang lương (*)
Truyện ngắn “Khi chiều tới gió reo trên lá rừng phong” của Phạm
Công Thiện viết ở Los Angeles tháng 9/1985 đã cắt ngang cuốn tiểu thuyết_hồi ký
“Hội hè miên man” của Hemingway ở ngay chương đầu tiên “Một quán rất được trên
quảng trường St. Michel”. Giao điểm đó như thế này:
Người lữ khách lỡ đường
Quán rượu không người trong thành phố, cái thành phố im lặng đìu
hiu chỉ có tiếng mưa gió và những căn nhà đóng cửa.
Buổi chiều thu tàn với mưa gió lạnh lẽo thổi bên ngoài
Tương tranh nhẹ giữa câu chuyện trong đầu và khung cảnh bên
ngoài
Người lữ khách ngồi ở cuối quán rượu, nơi góc phòng với chai
rượu (Whiskey, rum St. James), lấy bút ra và viết lên giấy trắng những dòng chữ
miên man. Câu chữ tuôn ra trên trang giấy, đôi khi câu chuyện trong đầu ông
chạy quá nhanh và người lữ khách chật vật chạy đuổi theo cố bắt chúng lại, cố
định chúng lại trên trang giấy. Thỉnh thoảng ông dừng lại, ngẩng đầu lên nhìn
thiếu nữ; thiếu nữ khẽ đưa mái tóc sang bên, đôi khi nàng khẽ ho vài tiếng,
tiếng ho trong trẻo; rồi nàng lại cúi xuống đọc sách, bên ngoài ngọn gió cuối
thu vẫn thổi mạnh như đong cho đầy thêm nỗi buồn và lạnh giá, phủ âm u và ướt át
khắp nơi trong thành phố. Người lữ khách nhìn xuống trang giấy, tiếp tục viết
và rồi ông thấy cô gái hiện ra trên trang giấy với mái tóc; ông không nhớ mình
đã mời nàng vào câu chuyện từ lúc nào hay là nàng đã chủ động bước vào câu
chuyện của ông, tự nhiên như khi ngẩng đầu lên hất mái tóc ra sau, như cúi đầu
lên trang sách, thi thoảng lơ đãng nhìn ra khung cửa nghe gió lạnh thổi rít bên
ngoài.
Và cái quan trọng nhất: tư thế của người viết đối với sứ mệnh
văn chương và cũng là người lữ khách trước cuộc đời mưa gió, những tương tranh
không thể không có như gia vị của một bữa tiệc. Khi ngồi trước trang giấy cũng
chính là ngồi đối diện với cuộc đời, với chính mình và thực hiện cuộc lên đường
tìm kiếm tự do và hạnh phúc hay là cuộc chiến vô hình với bóng tối của ý thức
qua ngòi bút; cuộc tầm cầu, trưởng dưỡng ý thức hệ, những khám phá về ngã_nhân,
sự sống và cái chết, sự nô lệ của con người, sự gục ngã, thất bại của tha nhân
trước chân lý.
Trong “hội hè miên man” (A moveable feast) Hemingway đã nói là
điều cần thiết nhất của ông khi viết là phải viết cho ra sự thật bởi dẫu sao
thì chúng ta vẫn luôn bị ngăn cách với sự thật của mình. Cả Hemingway và Phạm
Công Thiện đã tạo ra những bữa tiệc văn chương, chữ nghĩa bằng dấu ấn riêng
biệt của mình và thu hút người đọc nhiều thế hệ cho đến tận sau khi họ đã qua
đời. Hemingway tìm cầu sự thật, còn Phạm Công Thiện vứt bỏ mọi giá trị ngay từ
đầu theo phong cách đập phá thiên bẩm của mình. Tư thế cầm bút của Phạm Công
Thiện là hủy phá mọi rào cản trên đường đi của ngôn ngữ, của tư tưởng để truy
nguyên thể tánh, để sống trần trụi với nỗi khát vọng tự do của một con người
nhận ra sự nô lệ ý thức của mình trước văn hóa-văn minh nhân loại. Nhận ra sự
nô lệ đó chính là nhìn thấy sự thật. Nhìn thấy sự thật, con người kẻ sĩ lập tức
nổi giận vì thấy mình bị tước đoạt cái quyền sống thiêng liêng; lập tức rút
kiếm ra bước vào trận chiến quét sạch bóng tối của ý thức dưới danh nghĩa văn
hóa, truyền thống, phong tục, quy chuẩn đạo đức,…:
Rút kiếm, nhìn quanh lòng mênh mang
Muốn vượt hoàng hà, sông băng đóng……”
Đó chính là Lý Bạch với bầu rượu và thanh gươm trên tay. Lưỡi
gươm sắc xoay tít trong tay nhưng tuyệt nhiên không nhắm vào bất cứ ai, bất cứ
người nào mà cuộc vung gươm của con người kẻ sĩ chỉ chặt chém vào hư không
trong nỗ lực phá vòng vây kiên cố của thành kiến nội tại bên trong, chặt đứt
thói quen làm nô lệ của ý thức, lên đường đến với tự do. Đó cũng chính là cuộc
chiến của Nietzsche trong “Buổi hoàng hôn của những thần tượng” với vũ khí là
cái búa, là lưỡi tầm sét đập đổ những thành trì của sự dối trá, phỉnh gạt trong
ý thức của con người, xô ngã “ tất cả những chân lý cắm rễ sâu xa nhất trong
lòng đời và dám đốn ngã những thần tượng được tôn kính của truyền thống, và
thừa can đảm để gây nên những âm thanh trống rỗng của buổi chiều tà”. Nietzsche
nói “Hoặc chúng ta phá hủy sự sùng bái của chúng ta hoặc chúng ta phá hủy chính
chúng ta”.
Còn tác phẩm của Phạm Công Thiện là tiếng sấm rền, là tiếng thét
của con người tuổi trẻ trước thời cuộc mà sức sống bị bóp nghẹt vì những làn
đạn cày xéo thê thảm trên quê hương. Không còn lý tưởng, thân phận con người bị
quăng ném ra giữa đêm đen của con đường mất lối, con người không biết mình sống
vì cái gì, mình phải đi đâu, làm gì và dưới chân mình là nguyên một vũng lầy.
Lúc ấy người ta đọc Phạm Công Thiện, vồ chụp lấy những tác phẩm của ông vì nhận
ra đó chính là tiếng kêu la, gào thét bị dồn nén bên trong của chính mình. Cơn
cuồng nộ, bí lối bên trong được phóng thích qua tiếng gào thét đó. Với tác phẩm
“Ý thức mới trong văn nghệ và triết học”, An Tiêm xuất bản năm 1965 (Phạm Công
Thiện khởi sự viết tác phẩm này năm 1959, lúc 18 tuổi ), Phạm Công Thiện đã làm
chấn động toàn bộ con người tuổi trẻ miền Nam, mở đầu cho một thời đại của
những tiếng gào thét và những cơn địa chấn liên miên trong tâm thức con người
tuổi trẻ Việt Nam:
_ Trời tháng Tư (An Tiêm, 1966)
_ Im lặng hố thẳm (An Tiêm, 1967 và 1969; Phạm Hoàng, 1969)
_ Hố thẳm của tư tưởng (An Tiêm, 1967)
_ Mặt trời không bao giờ có thực (An Tiêm, 1967)
_ Chỉ còn tiếng thơ trên mặt đất — Trở về Rainer Maria Rilke
(1969)
_ Henry Miller (Phạm Hoàng, 1969)
_ Ý thức bùng vỡ (Đồng Nai, 1970)
_ Bay đi những cơn mưa phùn (Phạm Hoàng, 1970)…….
Đó là thời mà…. nói như họa sỹ Trịnh Cung, bạn của Trịnh Công
Sơn, đã nói khi hay tin Phạm Công Thiện mất “…. như thời tôi và Thiện gặp nhau
ở Sài Gòn những năm 60-70. Đó là những năm đẹp nhất đã sinh ra những kẻ bất
thường, những kẻ độc đáo duy nhất trong nền văn nghệ Sài Gòn, không có trước và
sau: Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn. Thời làm ra tiếng thét của
Thiện khi mặt trời đỏ đổ máu xuống Sài Gòn: “Máu, máu, kìa!”, Thiện vừa gào vừa
chỉ tay về phía mặt trời đỏ khi hai đứa tôi đang thả bộ trên đường Tự Do. Tôi
nghĩ thầm, chắc Thiện nhớ đến hình ảnh hoàng hôn đẫm máu (bloody twilight)
trong “Dry September” của William Faulkner”.
Điều lớn lao nhất mà Phạm Công Thiện đã làm được ở vị trí của
mình là đưa người đọc tiếp cận những tinh hoa và cao đỉnh tư tưởng nhân loại
trong thời của mình. Sau đó thực hiện một cuộc đảo chính ý thức hệ, phủ nhận
tất cả mọi giá trị, đạp đổ và rũ bỏ toàn bộ triết thuyết đông tây kim cổ như
những thứ đeo bám nặng nề, đứng thẳng lưng và một mình đơn độc bước tới đối
diện cuộc đời với tư thế của một kẻ tự do, một kẻ kiên quyết rũ bỏ, một kẻ
triệt để lãng quên. Bởi lẽ tất cả mọi triết thuyết đều cằn cỗi trước đời sống,
mọi tiếng nói đều vô nghĩa và rơi rụng trước niềm im lặng. Mọi thần thánh đều
có ngày tàn của mình, mọi thành trì đều có ngày sụp đổ; phủ nhận là bước đi
phải có của trật tự phát triển. Sứ mệnh thiêng liêng của con người là kiến tạo
nên chính mình để thoát khỏi kiếp sống lê lết trên mặt đất hoang vu của một
sinh linh nhỏ bé bởi ngộ nhận về cái tôi và tha nhân, sự tôn thờ những giá trị
bên ngoài, là sự bám rễ sâu của thành kiến, của bóng tối ý thức đè nặng lên
sinh mạng thiêng liêng của con người. Phạm Công Thiện là than đỏ trong lò. Tuổi
trẻ đọc Phạm Công Thiện mà không cảm thấy sức nóng tỏa ra trên những trang
viết, không cảm nhận một luồng sinh khí nhoi nhoi trong huyết quản thôi thúc
một cuộc lên đường thì có 2 trường hợp. Một, tuổi trẻ đó đã chết. Hai, tuổi trẻ
đó tự nội tại đã phủ nhận Phạm Công Thiện và phủ nhận luôn chính mình vì không
có gì để công nhận. Không có ngã và không có nhân. Thế giới chỉ là một dòng
chảy liên tục, diễn tiến không ngừng nghỉ ngay trong từng khoảnh khắc, không có
gì tựu thành, nói cách khác: ngay khi tựu thành đã lập tức tan rã. Và vì vậy
thế giới không thể nắm bắt, và bởi nhận thức chỉ là sự tái cấu trúc hóa thế
giới qua tấm màn tuệ ngã. Và ngay tại đây Phạm Công Thiện đã thất bại, sự thất
bại tiếp sau sự thất bại của tất cả ý thức hệ và tất cả đạo lý; sự thất bại của
Heidegger, sự thất bại của Hegel, sự thất bại của Scopenhauer, sự thất bại của
Husserl, sự thất bại của Cơ cấu luận, sự thất bại của Xã hội học, sự thất bại
của Sartre,…. mà Phạm Công Thiện liệt kê thành tựa của 9 chương sách trong “Ý
thức bùng vỡ”. Sau cơn đập phá tất cả mọi thành trì ý thức hệ của tất cả mọi
triết thuyết, tư tưởng đông tây kim cổ… Phạm Công Thiện không biết phải kiến
tạo cái gì, không vẽ nổi một con đường để cho ý thức mình thoát khỏi “sự mất
lối”, không có một quê hương để trở về và con chim kia vẫn sẽ phải bay mãi
trong miền hoang lương.
10/2017_ Uyển Lan.
(*) Thơ Phạm Công Thiện.
No comments:
Post a Comment