Vọng Trùng Ba
Sương len khói lộng, buốt chiều tà
Hai nẻo đạo đời ngược lối qua
Ta chọn am tranh triền núi vắng
Người về phố chợ chốn phương xa
Neo mây lũng gió, bàn tay mỏi
Ướm bụi đường hoa, sợi tóc ngà
Gửi lại vần thơ màu cổ tích
Lời thương đâu đó vọng trùng ba.
Hằn sâu năm tháng vết thiên di
Giữa cuộc hồng trần, biết nói gì
Tóc bạc buộc ngang trời mộng ảo
Tay gầy chạm khẽ giọt huyền vi
Sương mờ núi lạnh, tình hoài niệm
Nắng nhạt chiều xa, nghĩa khắc ghi
Bao kiếp trầm luân, chia đôi ngã
Buồn rằng: sinh tử, biệt tương tri.
Đời tu đầy đủ, nói chi nghèo
Có tận: tam y nhất bát theo
Thừa tự mầm kinh, trăng huyền nhiệm
Nối truyền pháp tánh, ngọc trong veo
Đường xa nào ngại muôn trùng gió
Mưa lạnh đâu màng vạn dặm đèo
Mấy đỗi xuân về miền liêu khách
Mai rừng chớm nở, giọt sương reo.
Lưu luyến trần gian một chút tình
Trăm năm mộng ảo lướt phù sinh
Danh hoa hiện pháp vô nhân vấn
Huyễn sắc tịch nhiên hữu ngã trình
Gánh đạo lên non, soi ngữ nghĩa
Lánh đời ẩn thất, ngẫm lời kinh
Đầu xuân diện bích cô phong đỉnh
Trực nhận phàm tâm, ngợ bóng mình.
Sơn lĩnh mù tênh chẳng bóng người
Biệt trùng sương khói giọt tình rơi
Hoa vương cửa đạo phô bày ý
Gió thoảng thềm xuân muốn ngỏ lời
Đất lạnh ngàn năm chờ nắng ấm
Cỏ sầu muôn thuở đợi mưa vơi
Chén trà liêu vắng, buồn thôi ngẫm...
Hữu xạ nhiên hương, lặng tiếng đời.
Chữ tình viết mãi vẫn rung tay
Giấu chặt vào tim chẳng tỏ bày
Ý ngữ lời thương con nước chảy
Bè văn bến mộng ánh trăng say
Cỏ hoa lối cũ sương thấm nhạt
Rêu đá thềm xưa bụi dặt dài
Góc núi mình ên ngồi độc ẩm
Đầu xuân bẻ bút ngắm mưa bay.
Phố chợ đèn hoa gót nguyệt hường
Rơi vào khoảnh lặng giọt tơ vương
Dặm trần, mắt biếc: Mê Ngộ Cảnh
Cuộc lữ, tóc huyền:Tỉnh Tuệ Hương
Rũ lại sau lưng từng nỗi nhớ
Xua đi trước mắt bấy niềm thương
Sắc xuân vẫn vẹn màu sơ thủy
Đạo thắm tình ta tết viễn phương.
Tiếng chim heo hút vọng sơn đầu
Sợi nắng hoàng hôn lạc bể dâu
Gió lộng sương sa tình ấm lạnh
Mây tan khói lãng nghĩa nông sâu
Nhân duyên quán chiếu xa niềm nhớ
Sinh diệt liễu tường lắng nỗi sầu
Đá nở hoa xuân vương cửa đạo
Nghìn trùng ly biệt vẫn trong nhau.
Xứ người gót lữ khói sương giăng
Đời lạc tiếng lòng lạnh giá băng
Nghịch cảnh rèn tâm, tâm đại sĩ
Chướng duyên mài chí, chí sơn tăng
Sắc không hữu ý tình miên viễn
Thiền pháp vô ngôn đạo vĩnh hằng
Gậy trúc lên non cười sông thẳm
Trà xuân tịch vắng hỏi buồn chăng ?
Lãng bạt bao mùa nhớ cố nhân
Chén trà tuế nguyệt nỗi phù vân
Khói mây ướm lạnh phai màu tóc
Gió bụi vương dài nặng gót chân
Văn bút thắm tình ươm tĩnh mặc
Sử kinh đượm nghĩa ẩn phong trần
Nhìn về chốn cũ cay lòng mắt
Mới đó ta-người biệt mấy xuân.
Lữ quán trần gian cõi bụi hồng
Cuối chiều rơi vỡ giọt tình không
Mưa giăng lối mộng sầu trăm ngả
Thuyền lạc bến mơ lạnh mấy dòng
Mấy thuở ly hương buồn trĩu nặng
Bao lần biệt xứ nhớ mênh mông
Ngày xa thao thức lời dang dở
Giấu tận vào tim một nỗi lòng.
Nửa đời luân lạc tết tha phương
Nhớ lắm chén trà vị cố hương
Chốn cũ hoa rơi tình nhạt nắng
Thềm xưa rêu bở nghĩa mù sương
Bút cùn mực cạn còn lưu luyến
Gió lạnh trăng mờ vẫn vấn vương
Một cõi bên trời niềm quạnh vắng
Lòng xuân trăn trở giọt sầu thương.
Tình Tự Cõi Không
Một lần nọ, Đức Phật
có lời giáo giới:
… Là tỳ-khưu trong
giáo pháp của Như Lai, thực hành con đường phạm hạnh thì cũng phải như khúc gỗ
kia là không được tấp vào bờ này, không được tấp vào bờ kia, không chìm giữa
dòng, không mắc cạn trên cồn đất nổi, không bị người đời nhặt lấy, không bị phi
nhân nhặt lấy, không bị lọt vào vùng nước xoáy, không bị mục nát bên trong thì
sẽ xu hướng về Niết-bàn, thông thuận về Niết-bàn.
(Xin đọc thêm câu
chuyện “Khúc Gỗ Trôi Sông” ở tập 4, bộ đại sử về cuộc đời Đức Phật MỘT CUỘC ĐỜI
MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT để biết rõ hơn nội dung, ý nghĩa).
Dẫn lời dạy trên của
Đức Phật, để biết rằng với hành giả đang lên lộ trình hướng về sự toàn triệt
Chân – Thiện - Mỹ phải vượt qua vô vàn khó khăn, chướng ngại, nguy nan như thế
nào.
Thơ như là một sự tiêu
dao đầy ý nhị, một thú vui tao nhã, thanh đạm; mà cũng là phương tiện quân
bình, là điểm tựa, là chỗ níu kéo trở về thực tại mỗi khi đối diện với sự cô
đơn, chơi vơi, hụt hẫng, nhọc nhằn, cạm bẫy, sóng gió, bất trắc… trước những
chướng duyên, cám dỗ của thất tình lục tặc.
Tập thơ nhỏ “Tình Tự
Cõi Không” của sư Thiện Pháp (bút danh Khải Tĩnh) như những lời tự sự, tâm
tình, sẻ chia của một tu sĩ đang trên viễn trình độc hành tất định (chứ không
phải bất định của đa phần thế gian), là cuộc viễn hành hướng đến cái toàn chân,
toàn thiện, toàn mỹ đó; đồng thời như một biểu đạt sự nếm trải vị mặn của “hạt
muối”, hương vị giải thoát duy nhất của cái đại đương đong đầy máu, mồ hôi và
nước mắt của vô lượng chúng sanh.
Giá trị và ý nghĩa của
tập thơ, các admin ko dám lạm bàn nữa vì đã rất đầy đủ, rõ ràng trong Lời đề
tựa của ngài Giới Đức (bút hiệu Minh Đức Triều Tâm Ảnh) rồi.
Đọc “Tình Tự Cõi Không”
Của Khải Tĩnh
Cửa chùa gọi là Cửa
Không, cõi thiền gọi là Cõi Không.
Cửa Không là cửa
“không có gì hết, trống trơn hết trọi”; vào trong ấy không thấy một chút bụi,
một chút hư, một chút vọng, một chút tình dù là tình khói sương bãng lãng…
Cõi Không là cõi của
“không bao la, không mênh mông”; không một chiếc lá, không một giọt nước, không
một làn trăng, không cả thiên hà đại địa? Hay là vì duyên khởi nên Không, Không
Tính? Nó chẳng phải ngoan không, chẳng phải hư không? Và không cả bờ này, không
cả bờ kia? Chẳng lẽ sứ mạng của ngôn ngữ đành buông tay, bất lực, dừng gót tại
vực thẳm: Hư vô không vọng tiếng?
Vậy mà nhà thơ của
chúng ta, ông sư Khải Tĩnh lại có một tập thơ Tình Tự Cõi Không? Cõi Không mà
còn Tình Tự? Như vậy có nghĩa, tuy nói là “Không” nhưng chưa được “Tĩnh” vì nhà
thơ của chúng ta còn Tình Tự?
Tôi nhớ, thuở xưa Tô
Đông Pha(1) có nói với Đạo Tiềm(2) về cái Không và cái Tĩnh này trong đoạn thơ
5 chữ:
Tĩnh cố liễu quần động
Không cố nạp vạn cảnh
Duyệt thế tẩu nhân gian
Quán thân ngọa vân lãnh
Hàm toan tạp chúng hảo
Trung hữu chí vị vĩnh”.
Tạm dịch, diễn ý:
“Đừng có gò ép, phải
vừa Không, vừa Tĩnh! Nhờ Tĩnh nên nó tóm thâu tất thảy mọi vọng động. Nhờ Không
nên nó dung nạp được vạn cảnh. Nhìn ngắm sự đời, bôn ba giữa cuộc đời mà thấy
mình nằm trên chóp đỉnh mây cao. Và cũng từ đây, thơ đi vào cuộc đời, nhấm nháp
đủ mọi đắng cay, mặn nồng, chua ngọt của nó để cảm nghiệm hương vị thù thắng
của cõi đại toàn!”
Đấy là tuyên ngôn của
chân diệu thơ, của thượng thừa thơ!
Tuy nhiên, đã là thơ,
đã là hồn, là tiếng nói thầm lặng của cõi lòng… mà nói “Tĩnh” như Tô Đông Pha
thì hóa ra ông ta vẫn đang còn chìm trong “cơn đại mộng của tư duy”?
Xin thưa, thơ chỉ là
thơ thôi, thơ không phải là “giáo pháp”!
Khải Tĩnh là một ông
sư đang tu tập. Vì là đang tu tập nên còn những trăn trở, những thao thức; và
còn rất nhiều những mảng sương, những mảy bụi, những làn tơ giăng ở đâu đó nơi
vòm trời tâm thức!
Có những đoạn thơ ông
khẳng định con đường:
Chánh niệm lòng hoa nở tinh chuyên
Nhân lành gieo cõi uyên nguyên
Mầm xưa trổ quả, đạo thiền trăng soi!”
Hoặc:
Ái vô minh, tham đắm buộc ràng
Sự đời phù phiếm nặng mang
Quẳng đi nhẹ gánh, thênh thang nẻo về!”
Đôi khi rất quyết
liệt:
Trần lao tám vạn thệ từ buông
Một mai ngộ pháp chân thường
Trăm dây ràng buộc, một đường kiếm rơi!”
Hoặc:
Hạ nhát đao chẻ mớ dư tình
Dưới trăng nhen lửa phù sinh
Đốt tan tục niệm bóng hình trong ta”.
Kiếm, đao… đều dùng cả, nhưng mà ở đâu đó còn chưa cắt được, chưa rơi được, chưa đoạn lìa được; tác giả cũng thú nhận:
Thủy vân đàm, trà hẹn nâng ly
Cuộc tàn, nặng nghĩa cố tri
Xa nhau cổ lụy, lòng ghì nhớ thương”.
Hoặc:
Đạo miên trường rọi đỉnh cô phong
Trở trăn hét vỡ giọt lòng
Cho tình thuở ấy lạc dòng nhớ thương!”
Âu đó cũng là tự nhiên
thôi, cũng là sự thực thôi!
Tập “Tình Tự Cõi
Không” có cả thảy 160 bài, nhiều thể loại, đa phần là tứ tuyệt, số còn lại là
lục bát, luật Đường, có cả thuận nghịch độc… Với thi pháp cổ điển, tập thơ này
chuẩn mực bằng trắc, chuẩn mực đối chữ, đối câu; chuẩn mực những cụm từ
Hán-Việt, chuẩn mực cả những thuật ngữ Phật học. Như ở trong vòng tròn mà múa
kiếm. Dẫu tả xung, hữu đột vẫn ở trong vòng tròn giả định, ước lệ!
Với công phu câu chữ,
công phu “thôi, xao”, công phu ngữ nghĩa và cả công phu kỹ thuật… tập thơ rất
đáng đọc, đáng được khích lệ. Tuy vậy, tôi còn chờ đợi tác giả với những bài
thơ có “nghệ thuật hình tượng và nghệ thuật ngôn ngữ” hơn nữa - mới xứng tầm
“thơ được gọi là thơ!”
Để kết luận, tôi tặng
tác giả mấy câu:
Hoành tảo giữa hư vô;
Thơ không dùng nội lực,
Cũng xuyên suốt hai bờ!”
Chú thích:
(1) Xem “Tô Đông Pha -
Những phương trời viễn mộng” của Tuệ Sỹ, NXB Ca Dao, năm 1973.
(2) Đạo Tiềm, tức là
Sâm Liêu Tử, người sống cùng thời và bạn giao tình thi ca với Tô Đông Pha (1035
- 1101) đời Tống, chứ không phải Đào Tiềm (Đào Uyên Minh) đời Tấn.
No comments:
Post a Comment