Friday, April 15, 2022

01- Lê văn Như Ý 1

 MỘT THOÁNG VŨ TRỤ   ...
Một hạt cát nhỏ bé nhưng có thể chứa    đựng cả một vũ trụ huy hoàng. Một vỏ ốc tự thu mình nhưng vẫn đầy sóng gió bao la. Cũng như người Ấn Độ tự nhận thiên nhiên là người thầy lớn nhất của họ. Xứ sở đó đã phát tiết những tư tưởng vĩ đại của nhân loại: Bà la môn, Phật...
 Càn khôn tận thị mao đầu thượng
nhật nguyệt bao hàm giới tử trung
 (Càn khôn rút lại đầu lông xíu
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải  mòng)
 (Khánh Hỷ, Ngô Tất Tố dịch)
Đó là tư tưởng “một trong tất cả, tất cả trong một”.

Nhưng không riêng gì Khánh Hỷ, những nhà thơ vĩ đại thường là người thể hiện một trực giác lóe sáng về bản chất thực tại, những khuynh hướng tiên tri và đầy ắp viễn tượng vũ trụ. Họ là nhà thơ đồng thời cũng là tư tưởng gia: Omar Khayyam, Bashô, Tagore, William Blake, Whitman, các nhà thơ thiền sư thời Lý - Trần, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... 
Điểm lại, ngay từ buổi đầu, thơ ca từ trong Veda, của Homere, Khuất Nguyên… đã có mặt trăng, sao, cát, đá… hàm chứa một cảm thức vũ trụ. Nói như G.S Trịnh Xuân Thuận, “sự giải thích những sự kiện dù đơn giản nhất cũng phải viện đến lịch sử vũ trụ và những ngôi sao chứa trong đó”.
Và, nếu Khánh Hỷ nhìn thấy vũ trụ trên đầu sợi lông, nhật nguyệt trong lòng hạt cải, thì với thiên tài thơ ca của nước Anh William Blake: 

… Nhìn thấy vũ trụ trong hạt cát

Và thiên đường trong bông hoa dại
Cái vô hạn trong lòng bàn tay
Và cái vĩnh cửu trong một giờ. 
Dường như đó là một thiền ngôn đậm chất phương Đông hơn là lời thơ của một nghệ sĩ nơi trời Tây. Đó cũng là một cách khái quát thực tại hiện hữu, trân quý trước cái đẹp vĩnh cửu và hiện thân vô thường. Cái đẹp mong manh dễ vỡ. Và, cũng chỉ những kẻ “đạt nhân” trong cuộc đời mới có trực giác lóe sáng ấy. Có phải thế không? Khoa học hiện đại chứng minh điều không thể thành có thể, từ một tế bào không thể nhìn thấy bằng mắt thường có thể nhân bản ra một cá thể, đến nỗi có thể giống nhau đến từng centimet. Chú cừu Doly là ví dụ... 
Một lần, Bashô nhìn đóa Nazuna, bông hoa bé dại đã hiện hữu trong thơ ông:

Nhìn kỹ
Tôi thấy đóa Nazuna
Bên hàng giậu 
 (Nguyễn Hữu Hiệu dịch)
 
Vô cùng đơn giản. Nhưng dĩ nhiên, nước đã đun sôi để nguội và một cốc nước lạnh, trong bản chất là khác nhau. Ánh mắt của Bashô đã không còn trần tục khi nhìn bông hoa nhỏ dại ấy. Và điều kỳ diệu đã xảy ra: đóa Nazuna tầm thường bỗng chốc biến thành một vũ trụ hồng diệu. Bởi, dù nhỏ nhoi, nhưng đó cũng là một sinh mệnh, mang cả dấu ấn sáng tạo, kết tinh của trời đất. Như con ếch lừng danh của Bashô:  
 
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao
 (Nhật Chiêu dịch)
 
Con ếch đã đánh thức ngàn năm vũ trụ (ao cũ). Qua đó, con ếch mới tự tại và đầy đủ vũ trụ tính.
Cũng là cảm thức về vũ trụ, nhưng bây giờ ta có những vần thơ cực kỳ khác lạ của Walt Whitman trong tập “Lá cỏ” (Leave grass) lừng danh. Những vần thơ sau đây nói lên cảm thức ấy:
 
“Một lá cỏ không thua gì đường bay của những vì sao
Một con kiến cũng ngang phần toàn bích, hay một hạt cát, hoặc trứng chim hồng tước
Và con nhái bén là kiệt tác nhà trời
 
Lá cỏ nhỏ nhoi nhưng vẫn đầy đủ vũ trụ tính như thường. Đó là tập thơ mang một cảm thức vũ trụ vô song. Nói tới tập thơ ấy cũng như tác giả của nó, là một trong trong những biểu tượng của thơ ca Mỹ, như Kahlil Gibran của Lebanon, nhu Bashô của Nhật Bản...
Và vũ trụ khác, là trò chơi linh thánh của hình bóng, của có và không...
 
Kìa xem bóng nguyệt lòng sông
Ai hay không có có không là gì
 
Hình ảnh trăng soi đáy nước, hay thủy nguyệt, là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca phương Đông nói chung, ảo diệu và u huyền. Con người và trời đất là hình bóng của nhau. Nếu ta là hình thì vũ trụ là bóng và ngược lại. Trời đất có bốn mùa, con người có tứ chi; một năm có 365 ngày, con người có 365 đốt xương. Hay nói cách khác, con người là tiểu vũ trụ và thế giới là đại vũ trụ, cả hai tương dung, tương chiếu lẫn nhau.
 
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước thị không không
 (Có thì có tự mảy may
không thì cả thế gian này cũng không
Vầng trăng vằng vặc in sông
Chắc chi có có không không mơ màng)
 (Từ Đạo Hạnh - Bản dịch tương truyền của Thiền sư Huyền Quang)
 
Thủy nguyệt là hình ảnh quen thuộc trong tư tưởng thẩm mỹ phương Đông. Đó là trò chơi linh ảo của hình và bóng, có và không, hay thực chất là trò chơi của vũ trụ. Cũng theo tinh thần mỹ cảm ấy, tâm ta không những soi chiếu thế giới mà thế giới cũng soi chiếu tâm ta. Thủy nguyệt, theo Dogen thiền sư: “Trăng không bao giờ ướt và nước không bao giờ tan vỡ. Chiều sâu của giọt sương là đỉnh cao của vầng trăng. Mỗi phản ánh dù dài hay ngắn đều biểu hiện cái bao la của giọt sương và chứng tỏ cái vô hạn của ánh trăng trong bầu trời” (Nhật Chiêu, dịch).
Cũng như với Nguyễn Du, đó là cái “tâm kính” để ông thấu đạt sáu cõi, hay nói một cách khác, đó là cái “tâm kính” để Tố Như soi chiếu thế giới, soi chiếu sự vật trong “cõi người ta” này:
 
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự
Tứ thời tâm kính tự như như
(Hoa nở lá rơi đầy nước mắt
Bốn mùa tâm kính vẫn như như)
 

Vậy bằng cách chú tâm miêu tả hạt cát, hạt cải, hoa nở lá rơi, hay trăng soi đáy nước…, các nhà thơ đều gợi ra cái vô hạn của thiên nhiên và vũ trụ. Mỗi sinh linh, mỗi vật dù bé nhỏ vô dụng vẫn đầy đủ vũ trụ tính như thường. Trước đại thế giới này, con người vẫn tự tại, là một tấm gương soi không ngừng đi tìm soi chiếu cái đẹp, chuyển hóa nó thành những phút giây thăng hoa vĩnh cửu.


 
Văn chương vô dụng
"Tôi yêu thơ bởi vì thơ vô dụng"
Nhưng sự vô dụng của thơ là cái hữu ích cho đời, cho những ai còn giữ một tâm hồn nguyên sơ.
Và phải chăng, tự thân nó, văn chương dưới mắt người đời chỉ là thứ tiểu nhược, mệnh mỏng. "Văn chương vô dụng" (Bashô).
Thực tế bản thân một bài thơ, một thiên truyện ngắn, hay một cuốn tiểu thuyết không đem lại cho người đọc một thứ lợi lộc vật chất trước mắt nào. Thậm chí nó còn giết chết thời gian vô ích.
Văn chương là tiếng nói yếu ớt. Và Nguyễn Du đã làm chúng ta kinh khiếp như những gì đã kinh khiếp trước ông:
"Văn chương tàn tích nhược như ti"
Và người làm chúng ta phải giựt mình là Trung niên thi sĩ Bùi Giáng khi phóng chiếu lại câu thơ thượng thừa của Nguyễn Du:
"Văn chương tiếng thở như lời tơ than"
Nói như Nguyễn Huy Thiệp "trong chữ có ma"!
Văn chương là tiếng nói yếu ớt. Văn chương mỏng manh như "tiếng thở", (nhược như ti - yếu mềm như tơ). Tiếng thở ngắn ngủi, nhẹ nhàng, nhưng nồng ấm và gần gũi làm sao. Tuy vô thường, nhưng có thở chúng ta mới sống được, làm sao có ai sống mà không thở. Sống là thở, như cuộc đời phải có văn chương. Thơ vô dụng, văn chương vô dụng. Nhưng đối với ai yêu nó thì đó là nguồn sống, là hơi thở uyên nguyên.
Có hay không có mối bận tâm của con người hôm nay đối với văn chương?
Y nhảy hoài nhưng chẳng bao giờ vượt qua được cái bóng của y!
Khi là tiếng vọng của Bashô ở xứ Phù Tang. Khi là tiếng vọng của Tuệ Trung đời Trần:
"Nhân gian tận kiến thiên sơn hiểu
Thùy thính cô viên đề xứ thâm"
(Nhân gian nhìn thấy ngàn non sáng
Ai lắng nghe ra tiếng vượn trầm)
Và cũng chỉ có Bùi Giáng mới phóng chiếu tài hoa như vậy thôi!
Văn chương là cái vớ vẩn, vô dụng giữa hội chợ phù hoa này. Vâng! Có rất nhiều người muốn thấy "ngàn non sáng" giữa cõi nhân gian. Nhưng ít có ai để tâm lắng nghe ra tiếng vượn trầm nơi núi thẳm thâm sâu.
Văn chương vô dụng, văn chương tàn tích nhược như ti. Hay cũng có thể nói, văn chương là tiếng vượn trầm giữa ngàn non sáng. Nào ai có hay?
Văn chương là thế giới của cái đẹp. Nó đầy ảo diệu. Mà cái đẹp thì vĩnh cữu. Suy cho cùng cuộc sống con người là vì cái đẹp. Đẹp là nguyên lý của sự sống." Cái đẹp cứu rỗi nhân loại" (Dostoievski).
Cái đẹp phát tiết từ vạn vật, văn chương phát tiết từ vạn vật.
Và văn chương mọc lên từ trái tim người. Đó là cõi người ta, đó là cái thế - giới - người nhất. Rong chơi trong thế giới đó, con người tìm lại được chính mình. "Văn học là nhân học", hẳn đó không chỉ là lời Gorki.
Quẳng gánh đi rồi hãy đến với văn chương. Nó sẽ chắp đôi cánh phượng hoàng vút cao chín tầng trời cho những ai đến với nó bằng tấm lòng và trái tim thuần khiết. "Đọc một tác phẩm hay như cưới thêm một người vợ", có người nói với tôi như vậy.
Con đường văn chương là con đường dấn thân (chữ của Sartre) - chứ không phải tiến thân. Nếu lợi dụng văn chương, thì văn chương đích thực nào đến và nở hoa trên trái tim người.
Đó cũng là sự dấn thân và đó là trái tim thuần khiết. Nơi để văn chương mọc lên.
Và đến với văn chương như đến với mối tình đầu, với nàng thơ còn trinh nguyên diễm tuyệt.
Một tác phẩm văn chương hay như cốc rượu mạnh đầy mê hoặc. Đọc và khám phá tác phẩm như ta thưởng thức cái cay nồng đầy dư vị của nó chứ không như dăm ba cốc nước lã kia, ai uống cũng được. Mà uống rượu thì phải tập, cũng như phải tập thưởng ngọan những trang tuyệt tác.
Và đối diện với tác phẩm như ta đối diện với hệ thống các biểu tượng mà ta cần phải khai mở và giải mã. Cũng như cuộc sống chúng ta tràn đầy các biểu tượng (Symbolique). Nhìn vào đó ta biết nó muốn nói điều gì, tượng trưng ý nghĩa gì.
Biểu tượng trong tác phẩm văn chương cũng vậy. Có thể đó là Lâu đài; Vụ án; Sấm; Linh Sơn hay chỉ có thể là dụ ngôn của Dos...
Và ta phải phơi bày, đem ra ánh sáng những gì tác giải còn để trong bóng tối. Điều này không có nghĩa là chúng ta vượt qua tác giả, mà chỉ đem ánh sáng những gì tác giả, đặc biệt là tác phẩm còn để trong bóng tối; người ta hẳn thường nói tư tưởng tác phẩm lớn hơn tư tưởng tác giả.
Đó là trường hợp của thiên tài và tác phẩm của họ.
Họ là các bi kịch gia vĩ đại Hy Lạp, là Goethe, Kafka, Dostoievski, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...Và tác phẩm của họ là những giọt mật, giọt rượu cay nồng đầy dư vị. Thưởng ngọan văn chương nghĩa là sống cùng những trang tuyệt tác.
Văn chương thì trước hết phải là văn chương. Nghĩa là phải hay, độc đáo, có tư tưởng. Tư tưởng như linh hồn thổi vào tác phẩm, tạo sức sống cho tác phẩm.
Con người hôm nay quá bận rộn với hội chợ phù hoa của mình. Có kẻ thì thấy được tầm quan trọng của văn chương nhưng không biết cái vớ vẩn của văn chương, cái vô dụng của văn chương.
Và, có mấy ai còn giữ được một tâm hồn và trái tim thuần khiết để văn chương mọc lên?
"Ấy chăng là cõi gọi nguồn
Tro tàn Hy Lạp mang buồn hôm nay".
(B.G)
Và văn chương: "ấy chăng là cõi gọi nguồn"!

No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...