Sunday, May 1, 2022

Cảnh 2

 
Thăng Trầm
Có tiếng gọi như là của gió
Ta nhìn lên: bàng bạc tiếng chuông
Tiếng chuông rơi ta còn mảnh vỡ
Sông Hương buồn rơi mảnh trăng suông.
 
Có tiếng gọi như là của lá
Ta nhìn lên: tim tím trời thu
Thu chợt đến như ta vừa đến
Phố trở mình lằng lặng ưu tư.
 
Có tiếng gọi như là của khói
Ta nhìn lên: biêng biếc sương đầy
Xa đất nước, xa mùa thu ấy
Nhớ chưa cầm đã rụng trên tay.
Hoa đào nghiêng nụ lung linh gió
Lất phất mưa bay ướt lạnh thềm.
Bóng chiều bàng bạc bóng Hồ Tây
Mây pha màu khói, khói pha mây
Em đi nắng bước chung hàng
Tôi về sầu Ðông rụng lá
 
Tình yêu chỉ thực sự tình yêu, tình người chỉ thực sự là tình người, vì trực thức rằng tất cả đều là khoảnh khắc chiêm bao. Mỗi khi mình trực nhận rằng chính mình cũng là "khoảnh khắc chiêm bao" thì sự bừng dậy tỉnh thức toàn diện vụt chợt tới và từ đó mình đứng dậy lao thân vào hành động thuần túy của một bậc Bồ Tát để giải thoát con người ra khỏi tất cả lao lung của đời sống.  Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo sĩ thi nhân với pháp khí phi thường là Trí Huệ Bát Nhã cùng với lòng Đại Bi Thơ Mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của Ý thức chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng dẫn đường soi sáng Thế Mệnh của Sử tính quê hương.
 
Bài thơ của Tuệ Sỹ mà tôi yêu thích nhất là bài "Một bước đường":
Một bước đường thôi nhưng núi cao;
Trời ơi, mây trắng đọng phương nào?
Đò ngang neo bến đầy sương sớm;
Cạn hết ân tình nước lạnh sao?
Một bước đường xa, xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi.
Cho hết đêm hè trong bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa.
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng Thu mưa máu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phím dương cầm, hay máu xanh
 
Thư gửi vội chắc không kịp đến
Đến rồi sao, không đến rồi sao
Có chăng dăm phút người lưu luyến
Đọc vội trăm cơn nhớ dạt dào
Người sắp lên đường, buồn hay vui
Ta nghe nhánh trúc héo hon cười
Nghe trong gió mặn lời chưa tỏ
Nghe ở lòng ta mù mù khơi
Người đi mang cả hồn ta theo
Những sớm mù sương, những tím chiều
Những khuya trăng lạnh soi đời lạnh
Ta có gì ngoài núi quạnh hiu
Người đi suối cũng đau từng khúc
Rừng vẫy tay lá nhớ gọi thầm
Ta muốn trải lòng theo tiếng trúc
Mà nghe từng lượng máu thăng trầm.
hahuyenchi
 
Ta đổ em rồi, em có hay
Máu như có rượu, hồn theo mây
Sầu trôi lãng đãng mười phương nhớ
Vẫn mộng tàn canh, mộng giữa ngày
Em hại ta rồi, yêu dấu ơi
Cuối mùa hư vọng, tình lên ngôi
Trên đôi môi ấy trời thu hẹp
Trong chén quỳnh tương có ngậm ngùi
 
Nhà phân Tâm học Carl Jung : “ Đôi mắt của ta bị giới hạn bởi những cái ta đang là “,  nghĩa là nếu ta quay về phương Tây thì ta không thấy được phương Đông..
Anh chỉ em xem cảnh mùa thu
Đà Lạt chìm trong sáng sương mù
Bóng người sơn nử băng qua dốc
Ẩn hiện gót hài ngở mộng du.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
 
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Nói "hiện đại" là ngầm so sánh với cái gì trước đó là "chưa hiện đại". Ở đây tôi muốn dừng lại ở một so sánh nho nhỏ, rằng Đất nước của Nguyễn Đình Thi hiện đại hơn Thơ mới trước đó không bao lâu.
 
Ông mở đầu bài thơ bằng việc tả mùa thu, một mùa thu như bao mùa thu trong cách nhìn của mùa thu thứ nhất, mùa thu đầu tiên:
 
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Ta nhớ những ngày thu đã xa...
 
"Những ngày thu đã xa" là những ngày thu nào vậy? Phải chăng, đó là một nỗi buồn trong thơ Bích Khê:
 
Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi... thu mênh mông!
 
Hay trong thơ Chế Lan Viên trước đó:
 
Thu đến đây, chừ biết nói răng
Chừ đây buồn giận biết sao ngăn
Tìm trong những sắc hoa đang rụng
Ta kiếm trong hoa chút sắc tàn!
 
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy!
 
Thơ ấy có nhạc và có hoa. Giai điệu đã sẵn trong giai điệu và tiết tấu của thơ rồi, còn vẽ một bức tranh lụa hay sơn dầu thì sao? Khó nhất là tả cho được cái buổi sáng "chớm lạnh", và những đường phố dài "xao xác hơi may". Còn "người ra đi đầu không ngoảnh lại" và "sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" chắc chắn là "nhìn được" bằng đường nét, bố cục và mầu sắc.
 
Nhưng không phải vậy đâu, tả được cái tình rưng rưng nước mắt của người "ra đi đầu không ngoảnh lại" kia mới là thật khó. Cái ấy, cái điều chiêm cảm ấy, chỉ có thơ mới làm được!
 
Và thơ cũng làm được một điều hơn thế, rằng chỉ sau hai khổ thơ đầu với lưu luyến, buồn thương, đau xót tiễn đưa, mùa thu bỗng khác hẳn, sáng bừng lên với một mầu sắc khác, bởi tâm trạng của người thơ đã khác, khỏe mạnh, tự tin và sáng bừng lên:
 
Mùa thu nay khác rồi!
 
Chỉ với năm chữ mở đầu của khổ thơ thứ ba "Mùa thu nay khác rồi" ta thấy tâm thế của người thơ đã chuyển, đã vươn tới một vị thế cao hơn, tự tin và sung mãn hơn trong tầm vóc của một nội lực lớn. Hình tượng của nhà thơ bỗng cao sừng sững:
 
Ta đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc, nói cười, thiết tha...
 
Nhận thức về "nội hàm" của một mùa thu mới là vô cùng sáng rõ và cách tân, bởi đây là mùa thu khác, mùa thu của những người đã có quyền làm chủ núi đồi, làm chủ những rừng tre phấp phới, và là một "mùa thu thay áo mới", một mùa thu "trong biếc, nói cười, thiết tha!".
 
Câu cuối của khổ thơ này thật tài hoa, và nó là đặc sản của thi tài Nguyễn Đình Thi.
 
Sự kết hợp của những tính từ - động từ - trạng từ, bất ngờ đến nỗi làm ta phải sững sờ trong chiêm cảm một vẻ đẹp ngôn ngữ Việt mà trước đây chưa bao giờ có. Ai trong biếc? Ai nói cười? Ai thiết tha? Chính là hồn của mùa thu mới, hồn của dân tộc vậy!
 
Một câu thơ mà làm sáng cả non sông, đất nước và làm cho chúng ta tự hào, tự tin biết bao. Một đất nước, với những ngày thu ấy, sẽ mãi mãi trường tồn. Đó là chủ quyền của người Việt, của giống nòi dân Việt. Trong cảm hứng hào sảng ấy ông viết tiếp:
 
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông chảy nặng phù sa...
 
Để rồi, vang vọng những câu thơ hào sảng nhất về giống nòi:
 
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
 
Tôi gọi những câu thơ này là những câu thơ thăng hoa nhất của người chiến sĩ - nghệ sĩ Nguyễn Đình  Thi. Ngoài những gì hay và đẹp nhất mà ông đã dâng hiến cho nền thi ca hiện đại Việt Nam, những câu thơ trên, ông đã tự khiêm nhường bộc lộ một thiên tài thi ca, ít ai sánh nổi:
 
Thu về đâu đó
 
Người xưa nhìn cây cỏ mà biết thu về, “ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu”. Còn anh nghe thu qua một tiếng rao “ai cốm ơ”, để từ tầng năm ngó xuống thấy dáng phụ nữ còng lưng đạp xe đèo thúng cốm phủ lá sen, có buộc thêm một bó rơm để gói cốm cho người mua, lòng anh se sắt một nỗi thu. 
Gió thu, trời thu khơi gợi một nỗi se dịu. Giữa đất trời bảng lảng giao mùa nóng lạnh này, anh chỉ muốn lang thang thật lâu, chân cứ bước mà lòng không vướng bận.
Người nhắc viết Thư Hà Nội. Người ơi, anh chép lại đây đoạn văn dịch, những muốn chia sẻ cùng nhau một thoáng thu bảng lảng bâng khuâng, cảm nhận và thấm thía. Ở phương trời góc bể nào thì thu vẫn là thu, một khoảng lặng, một nốt trầm.
Mùa thu đã đến. Phía dưới, trong vùng châu thổ rực nắng của sông Mozen, những bông hồng vẫn nở trong các mảnh vườn, khoe sắc vàng, đỏ, trắng. Những cây trĩu quả đung đưa cành lá trên mặt nước lung linh của dòng sông. Những trái nho đã căng mọng thứ nước thơm ngon. Những cây hồ đào và cây lật đã bật tung lớp vỏ xanh bên ngoài, thẻ rơi xuống đất những quả sáng lấp lánh. Sông Mozen uốn mình như một chiếc nơ bạc chảy giữa đôi bờ phủ đầy nho, từng lượn sóng vỗ êm đềm, ánh nắng thu vàng và bầu trời xanh soi mình trong dòng nước trong trẻo.
Đằng kia, cạnh một quán trọ quạnh hiu, một con đường chạy ra xa. Trên đó, người dân vùng Ephen trở về nhà, rời sông Mozen để lên núi. Đường lên dốc đứng, lối mòn lổn nhổn đá, khó đi; nước đã xói mòn vách đá thành những rãnh sâu. Bầu trời ảm đảm, mặt trời khuất bóng, những đỉnh núi choàng mây mù xám đục.
Phía trên cao nguyên Ephen, những cơn gió mùa thu bay lượn. Chúng từ phương Bắc tới và thổi ào ào, lấn lướt. Chúng thổi rạp những ngọn cỏ vàng mảnh khảnh và lắc lư những cây thông khẳng khiu, những cây phong run rẩy. Ở đây, trên miền cao này, đêm về đã cảm thấy khí vị mùa đông. Những bụi cây gai mang những chùm quả chát, những thung lũng nhỏ phủ một lớp sương mù dày đặc. Tất cả tạo nên một quang cảnh khô cằn, lãnh đạm. Chẳng mấy lúc nữa, dòng nước băng trắng lạnh sẽ phủ lên trên cỏ một làn sáng bạc. Vùng Ephen với những đỉnh núi xác xơ cây cối, những đồng hoang lửa đỏ lập lòe và những đầm lầy phủ đầy bóng tối đang chuẩn bị dần dần đón vị chúa khắc nghiệt - mùa đông.
Anh dịch những dòng này vào những năm tám mươi thế kỷ trước, tại Sài Gòn, khi còn trong quân ngũ. Dịch chỉ để cho mình. Dịch để chia sớt một khí vị thu phương Bắc với nắng phương Nam. “Vườn vàng phơi lá thu”. Thiên nhiên cứ tuần hoàn xuân hạ thu đông. Nhưng “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Và khi “Thơ mùa xuân đọc lại giữa mùa thu”, người ta có thể cười một nụ cười mang ý vị cay đắng và ngọt ngào. Ấy là thu. Ấy là hành trình đời người. Thu là khoảng dừng của chuyến xe đời đi từ vô cực và chạy tới vô cùng.
Nhưng sao anh lại mơ mộng thu xứ người mà quên thu xứ mình. Người nhắc viết Thư Hà Nội. Anh không quên. Một sớm mai thức dậy, nhìn qua khung cửa sổ mở suốt đêm thấy màu trời lãng đãng như có khói sương, anh biết thu đang chạm bước chân trần vào mình. Người xưa nhìn cây cỏ mà biết thu về, “ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu”. Còn anh nghe thu qua một tiếng rao “ai cốm ơ”, để từ tầng năm ngó xuống thấy dáng phụ nữ còng lưng đạp xe đèo thúng cốm phủ lá sen, có buộc thêm một bó rơm để gói cốm cho người mua, lòng anh se sắt một nỗi thu. Mùa thu cốm chuối, mùa thu thị hồng. Những tà áo thiếu nữ bay theo gió thu xôn xao gợi lòng yêu lòng nhớ. Anh nhớ mẹ mình khuất bóng đã lâu, sinh thời mẹ đâu biết có mùa thu ở dải đất miền Trung nắng lửa khô cằn. Anh biết mùa thu qua những trang sách thơ văn, cảm mùa thu qua cuộc sống ở đất bắc, và anh thương mẹ mỗi thu sang.
Trung thu, ai ngắm trăng? Anh lẩn thẩn hỏi mình. Rất nhiều hoa quả, rất nhiều bánh trái được bày ra trong cỗ trung thu cho con trẻ, cho nhiều lứa đôi, cho cả mọi người. Nhưng trăng thu đâu rồi, trăng thu trôi về đâu? Lẻ loi đêm khuya đứng ở cầu thang, anh có bóng trăng soi làm bạn tâm tình. Khi ấy tất cả đã ngủ yên, đã tàn cuộc vui, tàn đêm hội. Với anh, khi ấy thu mới là rằm. Với trăng, trăng thu.
Người nhắc viết Thư Hà Nội. Người đang ở Hà Nội, hay người đã xa Hà Nội, anh đọc tặng người mấy câu thơ rất dậy thu của thi sĩ lão niên rất trẻ Dương Tường:
Chiều se sẽ hương
Vườn se sẽ sương
Đường se sẽ quạnh
Trời se sẽ lạnh
Người se sẽ buồn.

Thu về đâu đó. Cho người thu hay thu người.

Mùa thu là mùa các thi-nhân đi tìm những vần thơ để sáng-tác thành những tuyệt-phẩm bất-hủ nghìn năm.
Ai đã từng đi qua phố vắng dưới ánh nắng chiều thu khi lá vàng bay bay khắp trời rồi lác-đác rơi qua mái đầu và rớt xuống đất, mới cảm thấy được cái đẹp tuyệt vời của mùa thu, mới rung cảm theo nhịp của lá vàng đang rơi,rung cảm theo những tia nắng thu dịu hiền vươn mãi đến tận chân trời xa thăm-thẳm. Nói đến mùa thu là nói đến mùa của lá vàng baybay, mùa của lá vàng rơi rơi, mùa của lá vàng khô rụng khắp mọi nẽo đường. Hình ảnh nỗi bật nhất về lá rụng giữa mùa thu là hình ảnh trong hai câu thơ sau đây của thi-sĩ Tản- Ðà:
" Trận gió thu-phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm lá bay sang "
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh-lùng "
(Huy-Cận)
" Rặng liễu đìu-hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Ðây mùa thu tới mùa thu tới
Với aó mơ phai dệt lá vàng "
(Xuân-Diệu )
" Ao thu lạnh-lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo-teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo "
(Nguyễn Khuyến)
" Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng "
(Chế lan Viên)
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man-mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Thái Can)
" Gió vàng hiu-hắt cảnh tiêu-sơ
Lẻ-tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa "
(Ngô chi Lan)
" Ðêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương "
(Nguyên-Du)
Ai cũng biết rằng các thi- nhân khi nói về mùa thu thường không quên đề-cập đến nắng thu. Nhà thơ Chế lan Viên đã làm cho ta ngạc-nhiên khi viết mấy câu thơ liên-quan đến nắng thu như sau:
"Chao ôi! thu đã tới rồi sao?
Thu trước vừa qua mới độ nào
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao"
Nhưng ngạc-nhiên hơn nữa là hai câu thơ đầy nhạc tính của nhà thơ Bích-Khê sau đây làm cho ta cảm thấy thích thú khi đọc lên vì nghe như một giai-điệu tuyệt vời :
"Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh-mông"
Dĩ-nhiên, mỗi nhà thơ diễn-tả vẻ nắng thu một cách khác nhau, nhưng hầu hết đều ca-ngợi nắng thu như là hình ảnh tuyệt đẹp giữa gió chiều.
Nhà thơ Xuân-Diệu cũng nói về nắng thu với hai câu thơ thất-ngôn đầy lưu luyến trữ-tình :
"Nõn-nà sương ngọc quanh thềm dâu .
Nắng nhỏ bâng-khuâng chiều lỡ thi"
Nhưng nếu ai đã đọc mấy câu thơ sau đây của nhà thơ Trúc-Ly đều cảm thấy hồn mình xao-xuyến bâng -khuâng :
"Tôi đứng bên nầy bờ dĩ-vãng
Thương về con nước ngại-ngùng xuôi
Những người con gái bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa thu tha-thiết nắng hoe thềm"
Ngoài ra ta còn thấy rất nhiều nhà thơ khác cũng đã nói về nắng thu với những dòng thơ thật đẹp và thật buồn:
"Chiều nay nắng nhạt luyến chân đồi
Hơi lạnh tàn thu giục lá rơi
Sương xuống chiều đi lòng vắng vẻ
Thê-lương thêm bận khúc ly-hoài ."
hay là :
" Hát bài hát ngô-nghê và êm ái
Bên sườn non mục-tử cưỡi trâu về
Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê
Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái . "
Nam-Trân Nguyễn học Sỹ
Nếu những hình ảnh đẹp của mùa thu là lá vàng rơi,là ánh trăng thu giữa đêm khuya thanh-vắng, và nắng chiều thu trong buổi hòang-hôn, thì hình ảnh buồn nhất của mùa thu là mưa thu. Chính những giọt mưa thu đã làm cho lòng người lạnh-lẽo, u-buồn, làm cho lòng người hoang vắng sầu thương, bơ-vơ giữa thế-giới mưa rơi buồn-bã.
Tuy-nhiên nếu trăng thu, nắng thu, mưa thu, là những đề tài bất-hủ cho các văn thi-sĩ,nhạc-sĩ lấy đó để sáng-tác thì sương thu là một đề tài không kém quan-trọng để các thi-nhân dệt thành thơ. Vào những lúc trời sáng tinh-sương, ai đã từng ra sau vườn, đều trông thấy những giọt sương đọng trên cành cây, ngọn cỏ giống như những hạt kim-cương lóng lánh đẹp tuyệt vời. Cho đến ngày hôm nay, rất nhiều người Việt-nam đã thuộc lòng đọan văn của nhà văn Thanh-Tịnh tả về cảnh sương thu: " Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu-yếm nắm tay tôi,dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp." Một nhà thơ nỗi tiếng như sóng cồn một thời vang bóng đã ca-ngợi sương thu qua bài thơ " Sương rơi. " Ðó là thi-sĩ Nguyễn-Vỹ với bài thơ hai chữ đã để lại cho đời một tác-phẩm bất-hủ về sương thu.:

" Sương rơi Rồi hạt Rơi sương
Nặng trĩu Sương trong Cành dương
Trên cành Tan-tác Liễu ngã
Dương-liễu Trong lòng Gió mưa

Nhưng hơi Tả-tơi Tơi-tả
Từng giọt
Gió bấc Em ơi! Thánh-thót
Lạnh-lùng Từng giọt Từng giọt

Hiu-hắt Thánh-thót Tơi-bời
Thấm vào Từng giọt Mưa rơi,
Em ơi Ðiêu-tàn Gió rơi;
Trong lòng Trên nấm Lá rơi,

Hạt sương Mồ hoang!.. Em ơi! .. "
Thành một
Vết thương!.. Nguyễn-Vỹ.

" Sương rơi Rồi hạt Rơi sương
Nặng trĩu Sương trong Cành dương
Trên cành Tan-tác Liễu ngã
Dương-liễu Trong lòng Gió mưa
Nhưng hơi Tả-tơi Tơi-tả
Từng giọt
Gió bấc Em ơi! Thánh-thót
Lạnh-lùng Từng giọt Từng giọt
Hiu-hắt Thánh-thót Tơi-bời
Thấm vào Từng giọt Mưa rơi,
Em ơi Ðiêu-tàn Gió rơi;
Trong lòng Trên nấm Lá rơi,
Hạt sương Mồ hoang!.. Em ơi! .. "
Thành một
Vết thương!.. Nguyễn-Vỹ.
 
Hoặc những câu thơ đầy nhung-nhớ quằn-quại giữa mùa thu:
" Chao ôi! mong nhớ! ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn."
(Chế lan Viên)
Hoặc là những câu thơ đầy nỗi nhớ-thương của thi-nhân:
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng,
Cõi lòng man- mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Thái-Can)
qua thi-ca Việt-nam, ta thấy nhiều nhà thơ đã để lại cho đời những bài thơ trữ-tình bất-hủ về mùa thu.
Như có một lời lay tĩnh tôi qua cơn hạ miên báo cho biết mùa thu đă phiêu du trở về. Tôi như sống lại với những hơi gió vuốt ve của mùa Thu, của những lành lạnh buổi sáng vừa đủ để khoác một chiếc áo ấm nhẹ lên người. Tôi yêu mùa Thu không phải chỉ v́ những lăng mạn của trời đất, của lòng mình. Tôi yêu mùa Thu không phải chỉ vì yêu thơ Thế Lữ:
"Cơn gió thổi lá bàng rơi lác đác
Cùng rơi theo loạt nước đọng trên cành.
Những cây khô đă chết cả màu xanh ..."
hay:
"Em nghe chăng Mùa Thu?
Lá Thu rơi xào-xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô"
Tôi yêu mùa Thu, v́ tôi yêu những chiếc lá vàng rơi xuống, để cho có mùa Xuân với những mầm sống mới mọc lên. Mùa Thu mà không có những con gió nhẹ làm cho những chiếc là lià cành, không có màu tàn phai của những chiếc lá phủ trên đường th́ đâu c̣n ǵ là đẹp, đâu c̣n ǵ là thơ mộng. Những chiếc lá bàng rơi lác đác, những cơn gió thổi lá bàng rơi đă nuôi sống được hai chị em trong tiểu thuyết "Đôi bạn" của Nhất Linh ...."gió lên, lạy trời gió lên .... để lá bàng rơi xuống nhiều, để nhặt được nhiều lá bán, để có thể sống qua ngày". Tôi h́nh dung những chiếc lá vàng mùa thu như là một sự hy sinh để làm đẹp cho đời, để cho người được sống. Nếu mùa Thu không có những cơn gió lành lạnh, không có những chiếc lá vàng đă lià cành, hay c̣n bám víu trên cây th́ c̣n đáng gọi là mùa Thu hay không. Cái đẹp của mùa Thu có ư nghiă là cái đẹp của sự chết để đem đến sự sống mới. Phải chăng đó là lư do tôi yêu mùa Thu? Phải chăng đó là lư do tôi yêu mến t́nh Chúa ban tặng cho tôi. V́ tôi liên tưởng những chiếc lá vàng chết đi để tạo thành mùa Thu như là t́nh Chúa đă hy sinh, đă chết đi cho cuộc đời của tôi có ư nghiă, cho cuộc đời được tốt đẹp. Bao nhiêu người thi sĩ đă ca tụng những chiếc lá vàng đă làm cho mùa Thu đẹp. Xin cho tôi được làm một người thi sĩ hèn mọn ca tụng t́nh Chúa đă đem đến cho cuộc đời tôi một mùa Thu tuyệt vời một mùa Thu vĩnh cửu.
k.g.
Người ta thường hay nói mùa thu là mùa của sự tàn phai, nhưng tôi đâu có thấy vậy đâu! Mùa thu là mùa của màu sắc và mùa của sự sống. Tôi ở vùng này đã gần ba mươi năm, vậy mà mỗi lần trời vào thu là tôi vẫn thấy mình như nín thở. Tôi muốn mùa thu đến và đi ngang qua đây thật chậm, để cho mỗi chiếc lá trên cành được đổi màu từng tờ một. Tôi biết đời sống bận rộn, nhưng đừng bao gi để cho những hạnh phúc, niềm vui có mặt cạnh bên mà mình lại không hề biết đến, bạn nhé!
Mùa này người ta thường rủ nhau lên núi xem lá đổi màu.
Hạnh phúc đang có ngay trước mắt anh. Chỉ cần anh biết dừng lại mà nhìn cho thật sâu sắc. Mặt trời hoàng hôn cũng đẹp mà một ngọn đèn dầu nhỏ cũng đẹp, trời mùa thu cũng đẹp mà một chiếc lá, cọng cỏ cũng đẹp. Trăng rằm mười sáu đẹp mà một con đom đóm lập lòe mùa hè cũng đẹp. Không có một cái gì trên đời này là tầm thường hết. Vào mùa thu, con đường này là con đường của màu sắc. Trên cao, hai bên đường, dưới chân tôi đi toàn là lá. Nhất là buổi sáng sau một cơn mưa, màu sắc trở nên sáng linh động lạ kỳ. Bước chân đi mà mình cứ tưởng như đang bước vào một bức tranh của Monet vậy. Mỗi khi đi đâu, tôi cũng tập bước những bước chân thật yên và thảnh thơi. Mỗi bước chân là một sự nhiệm mầu, mỗi chiếc lá là một hạnh phúc nhỏ. Hôm qua, trên đường thiền hành tôi đi qua có một tờ lá thật đẹp, tôi nhặt đem về phòng để trên bàn viết của mình. Mùa thu này trời đẹp lắm, bạn hãy ngước lên và nhìn bầu trời xanh trong trên cao. Màu nắng cũng trong và đẹp như màu lá.
Trời Thu nay đã sang mùa
Rơi trong vô sắc chuông chùa vang không
Đến đi nhẹ bước thong dong
Tâm Hòa, Lục độ cuối dòng Thu đi

Một đời Thu nhuộm Tâm Bi
Mạnh là Trí Dũng Bi vì chúng sanh
Đàn reo nhịp cuối trường canh
Trả thân Tứ đại thoát nhành tử sinh
Rơi trong vô sắc chuông chùa vang không
Đến đi nhẹ bước thong dong
Tâm Hòa, Lục độ cuối dòng Thu đi
Một đời Thu nhuộm Tâm Bi
Mạnh là Trí Dũng Bi vì chúng sanh
Đàn reo nhịp cuối trường canh
Trả thân Tứ đại thoát nhành tử sinh
Người về tắm suối Hoa Nghiêm
Nghe kinh phổ độ bên triền sắc không
Lòng tôi tan giữa dòng sông
Mà dòng sông vẫn mênh mông chảy hoài
Mai rồi về cõi hoang sơ
Lòng trần cũng trắng như tờ kinh văn
Người đi vui với phong vân
Tôi về với bụi hồng trần hóa duyên...

Nhớ Người Năm Xưa

(Mến tặng Hải Châu & Khánh Hùng, nguyện cầu cho bác Chánh Phước Hưng tâm thức luôn được bình an)

Tôi vẫn nhớ đôi mắt Người tinh sáng,
Cánh tay gầy đan nhẹ áng mây bay.
Một khung trời có mùa thu lãng đãng,
Ngắm nhìn đời ai lúc tỉnh khi say!

Tôi vẫn nhớ tiếng Người nay đã tuyệt,
Kể chuyện xưa cho tuyết phủ bạt ngàn.
Bao mơ ước mà giờ đây dĩ vãng,
Âm ba nào còn thoáng nhẹ không gian…

Tôi vẫn nhớ dáng Người, trong ly loạn,
Vững tay chèo cho thuyền vẫn vượt sang.
Bờ tự do của tâm tư hữu hạn,
Mà vô chung, còn rõ nghĩa điêu tàn!

Tôi vẫn nhớ, lối đi về nứt rạn,
Mắt lạc thần khi tứ đại rã tan!
Từng hơi thở, thương khó thật vô vàn,
Vô thường đến, tâm can trường, bất lực.

Tôi thổn thức, dòng chữ nhoè dấu mực,
Vần thơ buông, bỗng lạc vận khi nào?
Đời lênh đênh, dõi tìm dấu trăng sao,
Vòm mây trắng phủ đầy khung cửa nhỏ!

Tôi tưởng mất, nhưng Người xưa còn đó,
Tàng thức tôi vẫn in rõ tình Người.
Đôi mắt sáng, bờ môi dẫu biếng cười,
Nhưng rạng rỡ một trời thơ dấu ái…

Tuệ Kiên
Sáng 29/10/2005

Anh sẽ mãi nhớ vuông cửa sổ này
Trời thu Paris lạnh ngắt mầu mây
Mùa thu qua em lá vàng sắc bướm
Khói thuốc như lòng lãng đãng men say

Giọt cà phê xanh nhỏ vào tiếng hát
Anh nhắp men thu thơm những ngày sương
Mượn đỡ bờ vai ru đời tan tác
Mái tóc hoan cười nụ biếc phong hương

Vạt áo em bay thu vàng lối gió
Hoa cúc và em quấn quýt tim người
Mãi nhớ bờ vai, nhớ vuông cửa sổ
Paris và thu cùng rớt xuống đời

 

 

 

 

 

 
 

No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...