Friday, May 13, 2022

Sơn Nguyễn 20

 HẸN VỀ VỚI HUẾ
Em có sầu thương không hở em
Xa nhau rồi mắt có buồn thêm
Tên anh có viết đầy trang vở
Có gọi thầm nhau trong những đêm?
Trời chắc còn sương trong tóc em
Nắng vàng hanh đẫm nét môi mềm
Hương cau còn thoảng trong vườn vắng
Áo lụa em còn phơi trước hiên?
Và những chiều mưa em có trông?
Khi hoàng hôn rụng kín con đường
Bàn tay lạnh những ngày xa cách
Còn biết tay nào tay nhớ thương?
Anh sẽ về một sáng mùa thu
Sông Hương còn trắng những sương mù
Áo em trắng nhịp cầu thương nhớ
Bóng ngả lòng anh câu hát ru
Anh sẽ giong thuyền trên nước xanh
Chở trăng Gia Hội vào Nội thành
Soi nghiêng mái tóc thề Tôn nữ
Thiếp giữa một vùng hương mỏng manh
Anh sẽ hôn lên vầng trán em
Tuổi ngây thơ ngủ đó êm đềm
Môi em anh gọi là hoa đỏ
Sẽ nở trong lòng sau mỗi đêm
Chờ anh về thăm nhé, Huế ơi!
Đường xa nhưng không thể sai lời
Chiều nay nắng trở trong lòng mắt
Con nước linh hồn không muốn trôi.
1964
Thời điểm sáng tác bài thơ đó,thầy Bổn chỉ mới 18 tuổi và đang học tại cố đô Huế,không hiểu vì sao lại cảm tác một tứ thơ tình điệu đà như vậy,có phải vì thầy vốn gốc ở Quảng Nam như câu nói “Học trò xứ Quảng ra thi…”
Hai bài thơ trên có ngữ cảnh khác nhau,thơ của anh Nguyễn Sơn chỉ bàng bạc về thành quách,miếu mạo,đại nội,cố quận…như muốn mượn vật thể hữu hình để biểu cảm một điều vô hình .Còn ngược lại, thơ của Tần Hoài Dạ Vũ lại mang mang một nỗi nhớ khôn nguôi trong một thời gian hữu hạn để nhung nhớ vô hạn...Và rồi cả hai người cũng đều gặp nhau trên cùng một cung bậc,đó là tình yêu đối với Huế…Một người yêu Huế qua không gian,người còn lại yêu Huế qua thời gian…
Nguyễn Sơn đã bắt đầu tứ thơ bằng một dấu lặng tròn trịa trên phím đàn dương cầm cổ kính,mà dường như muốn mời độc giả hãy trầm tư khi nghe những nốt nhạc tiếp theo …Gọi là trầm tư ,vì ở đây Nguyễn Sơn muốn nhắc khéo khi đọc bài thơ Huế của anh thì không cần phải suy tư mông lung,mà chỉ cần tỉnh lặng mà thôi,vì Huế vốn xưa nay đều tỉnh lặng như dòng sông Hương cứ dùng dằng mãi, trôi mà không trôi,dừng mà không dừng,nên chi ánh tà dương còn vàng võ lấp lánh trên đầu ngọn sóng…Không chỉ dừng tại đó, vẻ tỉnh mặc còn vương lên tường rêu phong của thành quách,đền đài,miếu mạo và cả bia đá thủa nào.Ai đã ra xứ Huế vào mùa đông sẽ cảm nghiệm được gam màu lạnh bao trùm lên cả Huế,nên chi Nguyễn Sơn đã tự sự:
Từng dấu lặng nghiêng sầu lên lấp lánh
Tường rêu xanh. hồn cổ. phiến bia mờ
Thành quách ngủ giữa mù sương ngất lạnh
Khuya trở mình nghe sỏi đá bơ vơ
Với khổ thơ thứ nhất,Nguyễn Sơn còn để yên cho Huế ngủ,nhưng với khổ thứ hai,nhà thơ không còn để yên cho Huế tỉnh mặc nữa,mà ngược lại,đã lay Huế thức dậy,để điểm trang lại khuôn mạo của mình,như một công chúa đang còn ngái ngủ,nay tỉnh dậy để thay đổi xiêm y,chuốc phấn tô son lại ,làm lay động cả không gian, cả hư vô và cả cõi ta bà …Nhưng chỉ bằng một cánh dơi vỗ cánh, hay một chú sáo nhỏ bay về tìm tổ ấm của mình.Với Huế như rứa là đủ rồi, tại vì Huế khi mô cũng nhẹ nhàng,thanh thoát và mặc tỉnh:
Chiều Đại nội một cánh dơi rời tổ
Vỗ mông lung rồi xà xuống khôn cùng
Con sáo nhỏ thu mình trong hốc gỗ
Vươn cổ mềm hót rụng cả hư không
Mười năm trước,tôi có sáng tác một bài thơ “Ta về” tuy không hay như bài “Huế” của Nguyễn Sơn,nhưng có một đoạn tôi muốn giới thiệu để độc giả hiểu rõ thêm:
…Ta về dáo dác Đêm Hoàng Cung
Hoàng hậu đăng cơ ,ngự thuyền rồng
Theo hầu xa giá ,đoàn mỹ nữ
Ta không tìm thấy đấng minh quân…
Tứ thơ trên được tôi ngẫu hứng khi nói về Đêm Hoàng Cung được tổ chức qua các kỳ festival Huế để tái hiện các loại hình nghệ thuật cung đình của một thủa xa xưa trên nền lung linh,huyền ảo của thành quách Đại nội về đêm…Và phải chăng nhà thơ Nguyễn Sơn cũng đồng cảm với tôi vì cả hai cùng tương ngộ khi được trải nghiệm như thế,có phải vì thế Nguyễn Sơn đã cảm khái bằng một tứ thơ nghe sao ảo diệu ,huyền bí…Hãy thưởng thức những sự kiện như truyền thông đã giới thiệu:
Festival Huế dàn dựng các loại hình thể như “Âm sắc Việt” diễn ra tại cung Diên Thọ, sự sâu lắng và bay bổng của âm nhạc truyền thống được giới thiệu trong không gian ngào ngạt hương trầm, rất mộc mạc và kiêu sa. “Đám cưới công chúa” tại Cung Trường Sanh đưa người tham dự vào một đám cưới cung đình với đầy đủ các lễ nghi truyền thống được khắc họa khéo léo và tinh tế. Chương trình “Ca múa nhạc truyền thống” được tổ chức ở sân điện Thái Hòa, kết hợp mỹ thuật sắp đặt, triển lãm trưng bày, hoa đăng, đèn lồng, mở ra một không gian huyền ảo, tăng nét lung linh cho Đại Nội. Các hoạt cảnh vui chơi, ca hát, sinh hoạt hàng ngày của các hoàng tử và công chúa được tái hiện sinh động trong vườn Cơ Hạ. Chương trình “Thời trang cung đình và ký ức Huế xưa” trong không gian lộng lẫy, lấp lánh ánh vàng và hoa đăng của lầu Tứ Phương Vô Sự, hình bóng của các vị Vua, Hoàng hậu, Quan viên, Hoàng tử, Công chúa và giai nhân trong quá khứ như đang hiện về và vẫn còn đó đâu đây giữa hiện tại.
Đêm thuỷ mặc lung linh màu hoang phế
Khúc điêu tàn lộng lẫy điệu ma trơi
Lời cố quận rã rời trang huyết lệ
Bến cô liêu hò hẹn với mây trời.
Tôi thích nhất là khổ cuối cùng trong bài thơ Huế, cá nhân tôi nghĩ rằng đây là khổ thơ hay nhất và đỉnh nhất, vì nó cô đọng lại mọi tình tiết tự sự của nhà thơ. Tôi cho rằng ba khổ thơ trên là một nhập đề lung khởi, nhằm trang trọng giới thiệu một toàn cảnh bối cục về Huế…tuy chỉ bằng một vài hình ảnh, nhưng dường như cả Huế, nói đúng hơn là cả không gian Huế đều gói gọn trong đó…và ngoài ra, còn hơn thế nữa, Nguyễn Sơn đã mượn những chốn không gian đó để diễn tả nội tâm đang bồi hồi, xúc cảm của mình, đã nhân cách hóa tài tình, khéo léo và ý nhị từ những hình ảnh đó thành những linh hồn mang mang âm điệu bi tráng và cả bi sử. Tôi thích nhất câu “Bóng sông Hương rung nhịp mõ giang đầu” phải chăng nhà thơ muốn mượn một khổ đường thi để minh họa cho tiếng mõ ở giang đầu, tôi chợt nhớ tứ thơ:
“Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang vĩ.
Tương tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương giang thuỷ”
Nhưng ở đây, Nguyễn Sơn không nói chi đến nỗi tương tư thấm đẫm nghìn năm của đôi nhân tình trên sông Tương mà chỉ bay bỗng với cảm xúc “thả hình bắt bóng” tài tình bằng thi cảm với hình ảnh tiếng mõ nơi Điện Hòn Chén ở tận giang đầu, hay tiếng chuông huyền bí của chùa Thiên Mụ …Nhà thơ đã lắng nghe và cảm thấu được một âm điệu của ngàn xưa mà truyền cảm, ngân nga ,vang vọng đến cả ngàn sau …Chỉ bốn câu thôi, chỉ chừng đó thôi.Nguyễn Sơn đã trân trọng đem cả Huế đến trong lòng mọi người, trong đó có tôi,một người con của Huế đã ly hương xa xứ.
Hồn Thiên Mụ vọng hồi chuông cố sử
Bóng sông Hương rung nhịp mõ giang đầu
Sương mộ địa giăng sầu qua núi Ngự
Huế răng chừ. mà lệ buốt ngàn sau!
Theo sách vở kinh điển thì muốn bình một bài thơ, ngoài yếu tố đọc kỹ bài thơ còn phải biết xuất xứ, tác giả của tác phẩm…Nhưng với tôi, một kẻ ngồi chiếu dưới trong các nhà bình thơ, chỉ muốn nói một chút tâm tình riêng tư, một cảm nhận cá nhân rằng bài thơ của Nguyễn Sơn thật đầy cảm xúc bằng một cung bậc trầm bỗng rất đặc biệt của mình, có sức thu hút và lay động tâm hồn người đọc. Và cho dù chưa bao giờ gặp anh, nhưng có hề chi vì thơ vốn chất chứa nhiều ngữ điệu tình cảm vi diệu đã làm cho nhà thơ Nguyễn Sơn và tôi trở thành những tri kỷ từ độ nào…Xin cám ơn nhà thơ Nguyễn Sơn và cả anh đã cho tôi một cơ hội được thử bình một tứ thơ đáng để đời về Huế .
Saigon cuối tháng 9/2018
Nguyễn Hùng Dũng
 
SƠN NGUYÊN VÀ TẬP THƠ NGHÌN TRÙNG LỤC BÁT TÌM NHAU

(Năm trăm câu Lục Bát của nhà thơ SƠN NGUYÊN)
Với riêng tôi, người - làm- thơ- Sơn Nguyên là một sự chuyển hóa kỳ dị. Nhà thơ SN làm thơ chưa lâu và cũng không nhiều. Nhưng thơ là một phạm trù khác hẳn. Có nhiều người từng in nhiều tập thơ do những cơ sở chính thống về văn nghệ ấn hành, nghĩa là rất " chuyên nghiệp " nhưng đôi khi lại không- thể- đọc- hết. Những tập thơ không để lại dấu ấn gì, bài nào cũng na ná bài nào. Nội hàm và thi tứ nghèo nàn cả về tư tưởng lẫn ngôn ngữ. Nhưng cũng có những tác giả khác đã hoặc chưa thành danh, bài nào ít nhất cũng có những câu cực kỳ nổi bật, chữ dùng tưởng bình thường nhưng có linh hồn và sức sống riêng. SN là một trong những nhà thơ như vậy.
Sự chuyển hóa kỳ dị trong thi ca của anh hiện nay so với những bài thơ anh viết trước đây tôi đã đọc khác nhau một trời một vực, như được viết ra từ hai người khác hẳn nhau, cả về tính cách và trình độ nhận thức cũng hoàn toàn khác nhau. Mặc dù khá thân với nhau, tôi vẫn không thể hiểu được điều gì đã biến đổi anh - đúng hơn, thơ anh - bỗng đột ngột đổi khác, bỗng thình lình “ trên tầm “, đã đi rất xa về phong cách lẫn khía cạnh tâm linh một cách kỳ lạ như vậy. Cái “ cõi “ của SN cũng đã rất khác, trong mơ hồ lục bát SN viết những câu kinh dị như anh vừa thoát thân từ một xa xôi nào đó trở về, rất thiền, rất thoát, lãng đãng như có như không:
“Lên đầu vuốt tóc soi kinh
Xuống chân lần ngón xem mình ở đâu
Thưa người : Dưới ấy vực sâu
Làm sao thấy được ngàn dâu trên này
(Bài ca thân phận)
Ngàn dâu nào đột nhiên lại hiện ra trước anh vậy ? Câu thơ ngắt ngang để lại một khoảng trống khủng khiếp cho nỗi tang thương của đời người, những chia ly đẫm lệ và nỗi cô độc trong vô cùng dâu biển giữa cuộc đời. Câu cuối như một dấu hỏi lạ lùng không có lời giải đáp, ngàn đời không bao giờ giải đáp được. Câu hỏi bàng bạc, mông lung nhưng nhẹ nhàng, không trách cứ, không triết lý như người làm thơ cũng đã hòa mình vào cỏ cây và mặc nhiên nhìn nhận cái tôi nhỏ bé nhưng cũng vô cùng ngổn ngang trong trần thế. Bỗng nhiên nhớ Walt Whitman (thế kỷ 19- Mỹ  cũng viết trong tập thơ Lá Cỏ của ông:
“I celebrate myself and sing myself
And what I assume you ‘ ll assume
For every atom belonging to me as good belongs to you
(Song of myself – Walt Whitman)
Cái “celebrate của SN cũng không khác gì W Whitman hát cho chính mình nghe. Anh “vuốt tóc soi kinh, anh viết những câu lục bát lạ lùng để xem anh ở đâu trong ngổn ngang trần thế này, anh chào đón chính anh trong phù du thế sự và đột nhiên nhận ra sự bé nhỏ và bất lực trong đời:
“Hư không dốc chén sa mù
Tâm không còn vọng lời ru thác ghềnh
Ngước nhìn sợi nắng lênh đênh
Còn nghe một thuở bồng bềnh khói sương
Cái Tâm không bềnh bồng khói sương của SN trong lục bát kỳ lạ quá đỗi, anh nói mà như không nói, nhìn mà như không thấy, thấy mà như không đọng lại trong tâm. Nhớ khi còn trẻ có đọc mấy câu của F. Holderlin (Đức- thế kỷ 19) nhưng không nhớ rõ bài nào:
 
Vì những gì thi sĩ suy nghiệm hoặc ca ngâm
Điều đó tương liên
Rất mực Thánh Thần và kẻ ấy
Điều mà thi sĩ suy nghiệm vô hình nhưng lại hiện hữu trong tâm hồn người làm thơ, như sự tương quan rất đỗi gần gũi giữa họ với những Thánh Thần và những bậc Tiên Tri. Nhà thơTuân Lê, một người bạn chung với chúng tôi cũng vậy.
Đò nào chở nổi thênh thang
Thiên hương dạ mỵ cuốn ngàn năm bay
Người qua đây nhé, đừng lay
Ta đang thần thoại bên cây phong trần
Hội tan chưa nhỉ phù vân
Ngồi thêm một chút tình nhân rồi về
(Thơ Tuân Lê)
Tuân Lê, Son Nguyen và tôi là bạn. nhưng thơ của cả ba rất khác nhau, hoàn toàn không có một điểm chung nào. Thỉnh thoảng gặp khề khà với nhau, chúng tôi cũng lạ lùng về sự khác biệt của mình. SN ít nói, ít nói về chính anh và lúc nào cũng như trong “ cõi “ của riêng mình.
“Mây tan về phía không cùng
Hân hoan gửi lại muôn trùng giọt mưa
Rượu đầy rót chén dạ thưa
Sao bằng rượu cạn rót vừa chén nhau?
(Nghìn trùng lục bát- Thơ SN
Những mây tan về phía không cùng. Nơi ấy là mù mịt càn khôn, là sự vô biên “bất khả tư nghì, là cánh chim lẻ loi bay về một nơi vô định
“Chim bay lạc phía xa đường
Lắng nghe tiếng hót đoạn trường thở than
.............................................................
Thôi thì đời đã hoang vu
Cõng thêm một nhịp âm u sá gì
Đường xa cỏ lá dậy thì
Chúc người ở lại li bì cuộc vui"
(Thơ SN)
Phần nào trong tâm hồn của những người làm thơ dành lại cho nỗi cô đơn thăm thẳm trong mình và phần nào để duy trì mối tương quan cá nhân với ngoại cảnh và với chung quanh? Sự dung hòa trong phần thế tục và phần thăng hoa của thi ca có lúc làm SN lạc hướng. Anh đặt vấn đề và đành tự mình trả lới cho mình vì không có một thế lực siêu nhiên nào trả lời cho anh được cả:
“Cho nhau một chút hữu hình
Cũng là nhận chút vô hình của nhau
Lắng từ tiếng vọng đêm thâu
Nghe hoàng hôn thở nhịp đau nắng tàn
…Có những con đường đi không bao giờ đến. Cây Thánh giá trên vai mỗi người mỗi khác. Chúng ta lẻ loi trong đời này, lẻ loi với chính chúng ta và sự hiện hữu giữa đời đã từng là một vấn nạn. Những người làm thơ trong những chừng mực khác nhau đã phải thỏa hiệp với cuộc đời và thỏa hiệp với chính mình. Có rất nhiều nhà văn, nhà thơ đã không tìm được sự thỏa hiệp đó và tự tìm đến cái chết. Như Ernest Hemingway, như Jack London, như Stefan Zweig, như nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn, một nhà thơ kỳ dị trong văn học miền Nam đã từng nhảy lầu, từng cắt gân tay rồi ra nghĩa địa nằm một mình chờ chết khi mới 15 tuổi. Điều gì đã tác động mạnh mẽ đến họ như vậy ? Đừng hỏi họ vì chính họ cũng không trả lời được. Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn khi nằm với vợ con bỗng nửa đêm bật dậy viết những câu thơ kinh hồn :
“Khuya dậy hỏi đàn con nheo nhóc
Ở đâu mà lóc thóc tới đây ?
Thằng nào thằng ấy ngây ngây
Ngó mông ra phía rừng cây mịt mùng
Đầu ta đụng phải vô cùng
Phút giây đời sống hãi hùng xiết bao
Nhưng mà dẫu làm sao cũng sống
Cựa quậy hoài một đống bên nhau
Vợ nằm nước mắt chảy mau
Bỗng dưng thấy được cái đau ngàn đời
Hỏi ai xương cốt rã rời
Nằm trong xa vắng trả lời ta đi
Nửa đời chẳng hiểu gì tất cả
Vợ con rồi còn lạ lùng hơn
Chiêm bao lớp lớp chập chờn
Về đâu cỏ mộ xanh rờn chân mây
(Thơ Nguyễn Đức Sơn)
Những nhân duyên trong vô vàn tiền kiếp xô giạt chúng ta lại gần nhau và một ngày nào đó bỗng dưng biền biệt. Nỗi ám ảnh trong một kiếp người ngắn ngủi có lúc làm chúng ta hoang mang. Những người làm thơ nhạy cảm hơn, đâu đó trong tâm hồn họ là những nỗi ám ảnh không cùng.
“Hai bờ sương mộng mang mang
Trăng treo trước mặt nguyệt tàn sau lưng
………………………………………
Bước sao cho kịp bóng mình
Thôi thì nhón gót cho tình bước qua
Tất nhiên cũng chẳng phải là
Ngẫu nhiên một bận bóng ta bên đời
........................................................
Lặng im nghe tiếng muôn trùng
Có người ngồi vẽ vô cùng bên sông
Vẽ tràn trang giấy hư không
Chiều tàn còn lại đóa hồng đỏ tươi
Hỏi thăm, ông chỉ mĩm cười
Người điên vẽ khác với người không điên
Hư vô một cõi hai miền
Tôi đây vẽ để vô biên tìm mình"
(Thơ SN)
"Ngẫu nhiên một bận bóng ta bên đời"...Cái “một bận của SN ở đây được tính là trăm năm của một đời người. Nhưng rất nhiều, vô cùng nhiều đã rời bỏ cái “một bận ngẫu nhiên đó cũng lại vô cùng ngẫu nhiên. Những Đấng Thiêng Liêng, những Thánh Thần Cứu Chuộc như cành cây đột nhiên vớ được khi sắp chìm mất tăm mất tích giữa trùng trùng hư thực trong đời. Quên đi quên đi nỗi cô tịch giữa đời nhưng rồi có lúc nỗi cô tịch vẫn sờ sờ trước mắt. Và SN đành tự dỗ dành mình:
“Thì em cứ hát bên chiều
Để nghe phố cũng cô liêu như mình
Một mai về chốn lặng thinh
Dư âm vọng lại nhớ hình bóng xưa
Chữ “thì em anh dùng ở đây nghe ảo não quá đỗi. Như một điều chẳng đặng đừng nên đành phải vậy. Ai, ai trong chúng ta không từng một hoặc đã rất nhiều lần “đành phải như vậy? Đành chấp nhận. Đành sống. Và cả “đành tôi nữa.
“Vĩ cầm réo rắt như mưa
Giọt hiu hắt lạnh giọt lưa thưa sầu
Giọt rơi dưới ánh đèn màu
Giọt rung trong tận nỗi đau kiếp người
…Những người làm thơ có những hành trình của riêng họ mà tuyệt đối không có kẻ đồng hành. Không phải họ muốn như thế nhưng trong thăm thẳm tâm hồn, có những chướng ngại vô hình mà họ không dung hòa được, không vượt qua được. Trong nỗi bất lực của mình, những lời thơ bật ra từ những góc sâu kín nhất mà có thể chính họ cũng không hề biết. Trong mênh mang hoa cỏ hoang sơ, trong mịt mù tâm thức SN lặng lẽ đi tìm cái không hề có thực giữa trần thế nhưng với anh là những ám ảnh không nguôi. Trong chuyến viễn hành không có đích đến giữa cõi người, giữa những đong đưa không sắc SN vẫn lặng lẽ đi tìm anh, vẫn lặng lẽ những dòng lục bát nghìn trùng tìm nhau.
“Trở mình thực đã là mơ
Hồn nhiên hạnh phúc đứng chờ khổ đau
Huyền vi trong một vết sầu
Sắc Không, Không Sắc một màu đong đưa
Không ai cứu rỗi anh được. Không một Đấng Cứu Chuộc nào. Anh lặng lẽ với cây thập giá trên vai trong cuộc hành trình mù mịt không có đích đến. Như tất cả những nhà thơ khác. Và như cả chính chúng ta nữa.
Viết tặng nhà thơ Sơn Nguyên

Như Không

9/18

 
ĐỌC & BÌNH BÀI THƠ "HUẾ"
(Thơ của Nguyễn Sơn và bình của Nguyễn Hùng Dũng
HUẾ
Từng dấu lặng nghiêng sầu lên lấp lánh
Tường rêu xanh. hồn cổ. phiến bia mờ
Thành quách ngủ giữa mù sương ngất lạnh
Khuya trở mình nghe sỏi đá bơ vơ
Chiều Đại nội. một cánh dơi rời tổ
Vỗ mông lung rồi xà xuống khôn cùng
Con sáo nhỏ thu mình trong hốc gỗ
Vươn cổ mềm hót rụng cả hư không
Đêm thuỷ mặc lung linh màu hoang phế
Khúc điêu tàn lộng lẫy điệu ma trơi
Lời cố quận rã rời trang huyết lệ
Bến cô liêu hò hẹn với mây trời
Hồn Thiên Mụ vọng hồi chuông cố sử
Bóng sông Hương rung nhịp mõ giang đầu
Sương mộ địa giăng sầu qua núi Ngự
Huế răng chừ. mà lệ buốt ngàn sau!
SN_22.9.2018
 

Đã khá lâu rồi,kể từ khi bình bài “Ngồi ru võng tình” của Lara Ngô,một nhà thơ có sinh quán Quảng Trị,hiện đang định cư ở Hoa Kỳ, một nhà thơ mà tôi ngẩu nhiên được hân hạnh làm quen . Và hôm nay, sau khi thưởng thức thi phẩm “Huế” do anh Dũng Tôn Thọ Dương giới thiệu và được nàng Lara Ngô còm”Hay dữ”…Tôi vội đọc ngay và cảm khái muốn được bình bài này,cho dù tôi cũng chưa biết ất giáp gì về anh Nguyễn Sơn, tác giả bài thơ.

Nói về thơ Huế,khi kích Google,mọi người sẽ thấy hơn 38 triệu kết quả chỉ trong chưa đầy 1 giây,đủ thấy thi ca về xứ Huế phong phú biết chừng nào…Có rất nhiều nhà thơ,dù không phải là người Huế,nhưng chỉ cần đến Huế là có thể cảm tác nên một tứ thơ để đời,không biết có phải nhà thơ Nguyễn Sơn có như vậy không? Trước hết, tôi chân thành ghi nhận theo cảm quan cá nhân riêng mình,đây là một bài thơ hay in dấu trầm tích cổ điển có hơi hướm đường thi…Nhưng hãy để yên đó đã,tôi muốn khoe với mọi người một bài thơ về Huế của thầy tôi, Nguyễn Văn Bổn (thi sĩ Tần Hoài Dạ Vũ)


No comments:

Post a Comment

Văn chương

  NHÌN ĐÂU CŨNG THẤY MÀU TRONG TRẮNG TÀ ÁO BAY KÌA CON NGÕ XƯA Áo trắng ngày xưa trong trắng Huế,  Tóc thề xanh mướt trắng mây sương... D...